Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng bia rượu

Biện soạn BS Đặng Trong

  1. LẠM DỤNG RƯỢU:

Theo bảng phân loại bệnh quốc tế ICD-10 của Tổ chức Y tế thế giới, lạm dụng rượu được gọi là sử dụng rượu có hại (harmful use), theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê (DSM-IV) của Mỹ thì gọi là lạm dụng rượu. Tuy nhiện theo ICD-10 thì định nghĩa sử dụng có hại chỉ khu trú vào các tác hại của độc chất đối với cơ thể và tâm thần của người bệnh chứ không bao gồm cả các tác hại đối với xã hội. Lạm dụng rượu được quy định theo tiêu chuẩn chung về lạm dụng các độc chất.

Lạm dụng độc chất là việc sử dụng thái quá một chất tác động đến tâm thần nào đó có hại cho sức khoẻ về mặt cơ thể cũng như tâm thần. Lạm dụng độc chất gây ra nhiều hậu quả xấu về mặt xã hội, không được người chung quanh chấp nhận và không phù hợp với môi trường văn hoá, các hậu quả xấu về mặt xã hội như bị bắt giữ, mất việc làm, mâu thuẫn vợ chồng ... nhưng không nặng đến nổi để được chẩn đoán là rối loạn tâm thần.

  1. SAY RƯỢU THÔNG THƯỜNG:
  2. Mức độ nhẹ:

Say rượu mức độ nhẹ thấy ngưỡng cảm giác giảm, rối loạn chú ý, phản xạ chậm, khả năng phê phán giảm và nhận thức khó khăn, khí sắc tăng, dễ bị kích động, hay nổi khùng và rất hung bạo. Các triệu chứng trên thường phối hợp với rối loạn vận động và ngôn ngữ.

  1. Mức độ trung bình:

Ở mức độ này, rối loạn chú ý nặng hơn, bệnh nhân hay đãng trí, tri giác thiếu chính xác và có tri giác sai thực tại, hoạt động trí tuệ chậm và tư duy lai nhai và rối loạn phối hợp vận động làm cho bệnh nhân đi loạng choạng. Nổi bật nhất là hành vi bạo lực, thường gây gổ, đánh nhau.

  1. Mức độ nặng:

Say rượu mức độ nặng biểu hiện bằng trạng thái choáng váng ngày càng tăng và những giấc ngủ sâu kéo dài hơn. Trong nhiễm độc rượu nặng có thể có trạng thái bán hôn mê và hôn mê kèm theo những rối loạn cơ thể nặng, có thể trụy tim mạch và tử vong.

Lượng rượu trong máu khác nhau. Mức độ nhẹ 2%, mức độ trung bình 2 - 5%, mức độ nặng trên 5%. Tính theo cân nặng lượng rượu sử dụng mức độ nhẹ là 1 - 1,5ml/kg, mức độ vừa 1,5 - 2,5ml/kg và mức độ nặng 2,5 - 3,5ml/kg.

III. SAY RƯỢU BỆNH LÝ:

  1. Đặc điểm lâm sàng:

Say rượu bệnh lý là trạng thái loạn thần cấp tính xảy ra do uống rượu trong một khoảng thời gian ngắn không chỉ với một lượng rượu lớn mà ngay cả khi chỉ uống một lượng rượu nhỏ nhưng vẫn bị say do cơ thể có sự suy yếu hoặc mẫn cảm đặc biệt đối với rượu.

Say rượu bệnh lý xuất hiện đột ngột và triệu chứng rất rầm rộ.

Trong say rượu bệnh lý ý thức người bệnh trở nên mù mờ, định hướng lực về thời gian và không gian bị rối loạn. Người bệnh có ảo giác thị giác và ảo giác thính giác, có hoang tưởng bị hại, bị theo dõi, có cảm giác sợ hãi, thường hay giận dữ và độc ác. Hành vi đa số là kích động, công kích: một số kích động kiểu động kinh nên thường phạm pháp như tấn công, giết người, đốt nhà...

Say rượu bệnh lý thường kéo dài từ vài giờ đến 24 giờ và kết thúc đột ngột bằng một giấc ngủ sâu, sau đó bệnh nhân không nhớ những gì đã xảy ra hoặc chỉ nhớ lẻ tẻ mà thôi.

Đặc điểm chủ yếu của trạng thái này là rối loạn ý thức và ngôn ngữ, khác với say rượu thông thường chủ yếu chỉ là rối loạn ngôn ngữ và trạng thái choáng váng. Say rượu bệnh lý, người bệnh thường có hành vi nguy hiểm cho gia đình và xã hội.

  1. Tiêu chuẩn chẩn đoán say rượu bệnh lý theo DMS IV (1994):
  2. Gần đây có sử dụng rượu.
  3. Những thay đổi tâm lý và hành vi diễn ra trong một thời gian ngắn sau khi uống rượu như: hành vi tình dục không thích hợp, dễ thay đổi cảm xúc, khả năng suy đoán giảm và giảm các chức năng nghề nghiệp và xã hội.
  4. Một hoặc nhiều các dấu hiệu dưới đây xảy ra trong khi uống rượu:

+ Nói lè nhè.

+ Mất phối hợp vận động.

+ Dáng đi loạng choạng.

+ Rung giật nhãn cầu.

+ Giảm chú ý và trí nhớ.

+ Bất tỉnh hoặc hôn mê.

  1. Các triệu chứng này không do một bệnh thực tổn nào hoặc một rối loạn tâm thần nào khác gây ra.
  2. NGHIỆN RƯỢU:

Nghiện rượu hay còn gọi là lệ thuộc rượu

  1. Định nghĩa về nghiện rượu:

- Về mặt số lượng: Nghiện rượu là sử dụng quá 1ml cồn tuyệt đối cho 1kg cân nặng hoặc 0,75 lít rượu vang 10o cồn trong vòng 24 giờ cho một người đàn ông cân nặng 70kg (P. Hardy,1994).

- Về mặt xã hội: Nghiện rượu là tất cả các hình thái uống rượu vượt quá mức sử dụng thông thường và truyền thống (P.Hardy,1994).

- Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1993): Nghiện rượu là nhu cầu thèm muốn đòi hỏi thường xuyên đồ uống có cồn, hình thành thói quen, rối loạn nhân cách, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng đến sức khoẻ.

  1. Sự hấp thu và bài tiết rượu:

Mức độ hấp thụ của rượu tùy thuộc vào loại rượu, lượng rượu uống nhiều hay ít, lượng thức ăn đi kèm khi uống, thể trạng của người uống, tâm trạng khi uống...

Rượu được hấp thu nhanh khoảng 20% số lượng rượu được vào cơ thể ngay qua dạ dày, số còn lại được hấp thu qua ruột. Cơ thể thường có phản ứng tự bảo vệ khi nồng độ rượu đưa vào quá cao, niêm mạc của dạ dày sẽ bị kích thích tiết ra chất nhày làm giảm bớt sự hấp thu, cùng lúc đó môn vị co thắt ngăn rượu không xuống ruột, làm cho người uống buồn nôn và nôn rượu ra ngoài.

Thức ăn chất đạm và chất béo làm chậm sự hấp thu của rượu, trái lại nước uống sẽ làm tăng sự hấp thu của rượu, vào máu rượu được phân phối khắp cơ thể.

Sau khi uống, rượu được hấp thu nhanh qua niêm mạc đường tiêu hóa, đặc biệt ở phần đầu ruột non là nơi bình thường Vitamin nhóm B được hấp thu. Rượu hòa tan trong nước, phân bố nhanh vào tổ chức mỡ cho nên tác động nhanh đến neuron. Tuỳ theo nồng độ của rượu trong máu, mà người uống có nhiều cảm giác khác nhau.

  - 1-100mg/dl         Cảm thấy thoải mái, êm dịu.

  - 100-150mg/dl     Mất phối hợp động tác và dễ bị kích thích.

  - 150-200mg/dl     Nói không rõ và thất điều.

  - >250mg/dl                   Ngất hoặc hôn mê.

Trong gan dưới tác dụng của men alcohol dehydrogenase, rượu ethanol được chuyển hóa thành acetaldehyde và hydrogen. Dưới tác dụng của men acetaldehyde dehydrogenase, acetaldehyde được chuyển hóa thành acid acetic rồi sau đó biến đổi thành CO2 và nước. Bình thường gan sử dụng nguồn năng lượng từ hydrogen do tế bào mỡ cung cấp, nay lại do rượu cung cấp nên mỡ bị tích lũy lại gây ra gan nhiểm mỡ, lipide máu tăng.

 

 

Alcohol dehydrogenase

 

ethanol

 

Acetaldehyde + H2

 

Acetaldehyde dehydrogenase

 

acetaldehyde

 

Acid acetic             Kreb’s cycle                CO+ H2O

 

Acetaldehyde là một chất độc, gây tổn thương chức năng tế bào gan, nếu sự chuyển hóa acetaldehyde giảm làm nó tích tụ lại trong gan thì làm chết tế bào gan, viêm gan dẫn đến xơ gan. Ngoài ra còn làm phóng thích histamine làm hạ huyết áp, nôn mửa.

Đường huyết ở bệnh nhân nghiện rượu thường giảm do ăn uống ít và giảm dự trữ glycogen ở gan, rượu còn ngăn cản sự tân sinh đường.

Tác dụng lợi tiểu của rượu do ức chế tiết ADH ở hậu tuyến yên. Rượu còn làm tăng tiết ACTH, glucocorticoides và cathecholamines. Rượu ức chế tổng hợp testosterone cho nên bệnh nhân nghiện rượu nam thường bị bất lực, nữ hóa.

Rượu làm tăng tiết dịch vị, gây viêm dạ dày mạn, viêm thực quản, viêm tụy. 

Nhiễm độc rượu là khi nào nồng độ rượu trong máu trên 0,15% thể tích

Khoảng 10% số lượng rượu được đào thải ra ngoài bằng đường hô hấp và thận, số còn lại bị Oxy hóa và cung cấp năng lượng. Loại năng lượng này không tích trữ mà được dùng ngay, vì vậy người uống rượu có đủ năng lượng để hoạt động nhưng lại thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết khác. Vì vậy uống rượu lâu ngày sẽ dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu Vitamin nhóm B.

  1. Lịch sử nghiên cứu về nghiện rượu:

Nghiện rượu đã được nghiên cứu từ giữa thế kỷ thứ 19 và cho tới nay vẫn còn là vấn đề thời sự, vì số người nghiện rượu ngày càng gia tăng: ở Pháp các bệnh lý tâm thần do rượu chiếm 22% số bệnh nhân nội trú tại bệnh viện tâm thần (J. Ades 1990). Tại Bungaria các bệnh nhân loạn thần do rượu chiếm 20% số giường bệnh tâm thần (T.S Tancuchev 1988). Ở Mỹ, khoảng 50% người dùng bia rượu thường xuyên và 30% có các vấn đề liên quan đến rượu như sử dụng rượu khi lái xe, bỏ học, mất việc do rượu.

Năm 1984, ở Liên Xô (cũ), người nghiện rượu được quản lý trong các dixpancer là 520 ngàn người thì đến năm 1986 tăng lên 532 ngàn người. Theo tài liệu của Yu. P. Lisishun, cứ 3 – 4 người lạm dụng rượu thì có 1 người bị bệnh nghiện rượu. Điều đó cho thấy giữa lạm dụng rượu và bệnh nghiện rượu có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Nghiện rượu là một bệnh mạn tính, do nhu cầu uống rượu không được thỏa mãn một cách thường xuyên, gây thèm rượu bắt buộc làm ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc, đến sức khỏe tâm thần và thể chất, làm tổn thương đến các mối quan hệ gia đình và đời sống xã hội.

Các rối loạn liên quan đến rượu thực sự là mối quan tâm của Tổ chức Y Tế Thế Giới. Nó đứng hàng thứ 3 sau bệnh tim mạch và ung thư.

Ở nước ta trước đây các bệnh lý tâm thần do rượu rất hiếm, các công trình nghiên cứu về lạm dụng rượu, nghiện rượu cũng còn ít. Trong những năm gần đây ngày càng xuất hiện nhiều trường hợp loạn thần do rượu phải vào điều trị tại các cơ sở bệnh viện tâm thần ở các tỉnh, thành phố và Viện Sức khỏe Tâm thần. Bệnh lý do rượu đã chiếm một tỷ lệ đáng kể. Trước đây chỉ chiếm 0,31% số bệnh nhân nằm viện năm 1990; thì đến năm 1994 các bệnh lý tâm thần do rượu đã lên tới 6,99%, tăng gấp hơn 22 lần (Võ Văn Bản, Trần Viết Nghị 1994).

  1. Tỷ lệ dịch tể về nghiện rượu:

Barrucand D, Nguyễn Đăng Dung nêu một số nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy tỷ lệ lạm dụng rượu ở các nước trung bình khoảng 12-17% dân số, tỷ lệ nghiện rượu khoảng 3-5% dân số. Tuổi nghiện rượu có xu hướng ngày càng trẻ hóa, theo Nguyễn Kim Việt có 3,6% học sinh lớp 12 ở Hoa Kỳ uống rượu hàng ngày.

Ở Việt Nam, theo một số nghiên cứu tỷ lệ nghiện rượu ở nam giới trên 16 tuổi chiếm khoảng 3%. Theo nghiên cứu của Lê Anh Tuấn và Lý Trần Tình nghiện rượu ở người trên 15 tuổi chiếm tỷ lệ 3,24%.

Theo số liệu điều tra tại phường Đúc-Thành phố Huế tỷ lệ nghiện rượu và lạm dụng rượu trong cộng đồng là 3,21% (Nguyễn Hữu Cát), tại Hà Tây là 3,60% (Trần Văn Cường), tại Đà Nẵng là 5,59% (Nguyễn Hữu Kỳ).

  1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu (ICD-10):

Chỉ chẩn đoán nghiện rượu khi có từ 3 triệu chứng trở lên và được trải nghiệm hay biểu lộ vào một lúc nào đó trong vòng 1 năm trở lại đây:

(1) Thèm muốn mãnh liệt. Cảm thấy bắt buộc phải uống rượu.

(2) Giảm hoặc ngừng uống rượu là một việc làm rất khó khăn (Không tự làm chủ được mình).

(3) Khi ngưng sử dụng có hội chứng cai xuất hiện.

(4) Phải tăng liều dần mới đạt được khoái cảm.

(5) Bỏ bê công việc hàng ngày và dùng nhiều thời gian để tìm kiếm và sử dụng rượu.

(6) Tiếp tục sử dụng rượu dù đã có những hậu quả về mặt cơ thể.

  1. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai rượu theo DSM IV (1994):
  2. Ngừng hoặc giảm uống rượu khi đang uống liều cao và kéo dài.
  3. Có ít nhất là 2 dấu hiệu dưới đây xảy ra sau tiêu chuẩn A vài giờ đến vài ngày:

+ Tăng hoạt động tự động nhịp tim (nhịp tim > 100 lần/phút, mồ hôi ra rất nhiều).

+ Run tay.

+ Mất ngủ.

+ Buồn nôn hoặc nôn.

+ Ảo thị, ảo thanh và ảo khứu hoặc hoang tưởng.

+ Kích động tâm thần vận động.

+ Có trạng thái lo âu.

+ Có cơn co giật kiểu động kinh cơn lớn.

  1. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn B gây ra trạng thái nguy kịch hoặc suy giảm các chức năng nghề nghiệp và xã hội.
  2. Các triệu chứng này không do một bệnh lý thực tổn và một bệnh rối loạn tâm thần nào khác gây ra.
  3. Tác dụng của rượu đối với cơ thể:

7.1. Rượu đối với não:

Rượu không phải là một chất kích thích mà là một chất làm suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương. Nhưng rượu làm mất ức chế mạnh hơn gây nên quá trình hưng phấn giả và vì vậy người uống rượu cảm thấy hưng phấn, đỡ lo âu, sợ hãi, hoạt động nhiều, nói nhiều, khả năng tự kiềm chế bản thân suy giảm nên lời nói thiếu tế nhị, suồng sã, sàm sỡ, cử chỉ hoạt động thiếu chính xác.

Khi nồng độ rượu trong máu là 0,3% thì vận động và tư duy, tri giác đều bị rối loạn. Khi nồng độ rượu lên tới 0,4% - 0,5% thì cả hai quá trình hưng phấn và ức chế đều bị suy giảm, người uống rượu bị bất tỉnh, hôn mê và khi nồng độ rượu lên đến 0,6% - 0,7% thì người uống rượu có thể tử vong.

7.2. Rượu ảnh hưởng đến các cơ quan khác:

- Tác dụng lên tuyến yên, gây nên rối loạn sự tăng trưởng, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chuyển hóa nước và muối khoáng.

- Gây viêm dạ dày, viêm tụy cấp.

- Tác hại đối với gan: gây xơ gan, thoái hóa mỡ gan.

- Các bệnh mạch máu, tim mạch, tăng lắng đọng choleterol ở mạch máu và ở tim gây xơ mỡ động mạch.

  1. Lâm sàng nghiện rượu.

Tiến triển của quá trình nghiện rượu trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu là giai đoạn giống suy nhược thần kinh; giai đoạn thứ 2 có biểu hiện lâm sàng đa dạng của hội chứng cai. Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn bệnh não thực tổn do rượu, có nhiều biểu hiện rối loạn tâm thần phức tạp và nặng nề cùng với các rối loạn thần kinh thực tổn đa dạng. Đối với giai đoạn này người ta coi như giai đoạn rối loạn tâm thần mạn tính do rượu.

8.1. Giai đoạn 1: Giai đoạn giống suy nhược thần kinh

Một trong những dấu hiệu sớm nhất của giai đoạn này là say rượu bệnh lý, sự ám ảnh thường xuyên về rượu và sau đó là mất sự kiểm soát về số lượng rượu uống. Triệu chứng đầu tiên của nghiện rượu là mất phản xạ nôn khi uống quá mức, tăng khả năng dung nạp rượu đến mức tối đa cho phép, thay đổi tính nết rõ rệt, có biểu hiện rối loạn trí nhớ và chú ý, người bệnh trở nên độc ác, hay gây rối và đa nghi. Các triệu chứng này xuất hiện trên nền của trạng thái suy nhược thần kinh như: uể oải, đuối sức, mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ…làm giảm khả năng lao động và hiệu suất làm việc.

Bệnh nhân luôn luôn thèm rượu và tìm mọi cách để đạt được mục đích của mình. Nhu cầu hàng ngày để thoả mãn trạng thái thèm rượu thường là 400 – 500ml rượu mạnh (35o - 40o cồn) và có thể còn hơn. Ngoài ra, bệnh nhân còn có các bệnh cơ thể như: cao huyết áp, viêm gan, viêm tuỵ, viêm dạ dày, viêm thực quản, viêm đại tràng và giai đoạn này thường kéo dài 1 - 6 năm, tuỳ thuộc vào cường độ uống rượu của người bệnh.

8.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn có hội chứng cai

- Tình trạng sảng rượu ngày càng gia tăng, bệnh nhân không còn đủ nghị lực để đấu tranh với cơn thèm rượu. Các triệu chứng ở giai đoạn một tiến triển trầm trọng thêm. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là hội chứng cai xảy ra khi bệnh nhân ngưng uống rượu vài giờ hoặc vài ngày thì xuất hiện ngay các triệu chứng rối loạn tâm thần và thần kinh thực vật đa dạng (nếu bệnh nhân được uống một lượng rượu nhỏ thì các triệu chứng này giảm hoặc mất đi nhanh chóng).

- Rối loạn tâm thần: trên nền khí sắc giảm xuất hiện các trạng thái buồn rầu, dễ bực tức, giận dữ, độc ác, đa nghi. Bệnh nhân cảm thấy sợ hãi vô cớ và có các ý tưởng tự buộc tội mình, có thể có ảo thị và ảo thanh thật, giấc ngủ của bệnh nhân không sâu hoặc mất ngủ và có nhiều ác mộng. Bệnh nhân biến đổi nhân cách trầm trọng, lối sống bê tha và thường có hành vi hung bạo.

- Rối loạn thần kinh thực vật: biểu hiện bằng nhịp tim nhanh trên 100 lần/phút, tăng huyết áp, run đầu chi, khô miệng, chóng mặt, buồn nôn, nôn, tăng tiết mồ hôi và có thể xuất hiện các cơn co giật kiểu động kinh.

- Khả năng dung nạp rượu tăng đến cực điểm, mỗi ngày bệnh nhân có thể uống với số lượng từ 1500 -2000ml rượu mạnh (35 – 400 cồn) hoặc hơn, suốt ngày bệnh nhân trong trạng thái say và giai đoạn này kéo dài từ 3 – 5 năm. 

8.3. Giai đoạn 3: Giai đoạn bệnh não thực tổn do rượu

Các triệu chứng ở giai đoạn 2 biến đổi từ từ nặng dần lên và xuất hiện thêm các triệu chứng mới như: thèm rượu có khuynh hướng giảm, bệnh nhân bớt lè nhè và ít  quấy nhiễu hơn trước. Khả năng dung nạp rượu rất kém, trạng thái say xảy ra với lượng rượu ít hơn giai đoạn 1 và 2. Trong giai đoạn này bệnh nhân chỉ uống mỗi lần khoảng 150 - 200ml rượu mạnh (35 – 400 cồn) là say và thời gian say kéo dài, hội chứng cai cũng dài hơn trước, những rối loạn thần kinh vận mạch và rối loạn cơ thể cũng nặng nề hơn trước.

Giai đoạn bệnh não thực tổn do rượu có đặc điểm uống một lượng nhỏ nhưng uống nhiều lần trong ngày hay gọi là nghiện rượu thực sự. Khi bệnh nhân tiếp tục uống rượu thì khả năng dung nạp rượu càng giảm do các rối loạn chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể ngày càng trầm trọng và nhân cách của bệnh nhân biến đổi, bất chấp sự lên án của gia đình và xã hội, mọi suy nghĩ chỉ tập trung vào rượu. Các rối loạn tâm thần cũng ngày càng sâu sắc như hoang tưởng ghen tuông, chống đối xã hội, hành vi thô bạo…. Đôi khi bệnh nhân có rối loạn trầm cảm, trí nhớ và chú ý giảm sút đáng kể, mất dần khả năng học tập và lao động vốn có.

  1. Cận lâm sàng bệnh nhân nghiện rượu: Xét nghiệm cận lâm sàng ở những bệnh nhân nghiện rượu ta thấy:

  - Số lượng Hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu đều giảm

  - Thời gian đầu MCV (Mean corpuscule volume) tăng ( > 95fL       ), nếu nghiện lâu ngày thì MVC giảm

  - Cholesterrol máu tăng cao

  - Lactate dehydrogenase tăng.

  - Tăng Acid uric.

  - 75% bệnh nhân nghiện rượu có men Gamma-glutamyltransferase (GGT) tăng, đây là chỉ điểm cận lâm sàng để phát hiện bệnh nhân nghiện rượu sớm nhất

  - SGOT và SGPT đều tăng.

  1. Một số yếu tố thuận lợi cho nghiện rượu:

10.1. Yếu tố về tuổi:

Yếu tố tuổi tác rất có ý nghĩa trong việc phát sinh và phát triển nghiện rượu. Nghiện rượu xảy ra ở lứa tuổi thanh thiếu niên là nhiều hơn cả và rất nhanh chóng chuyển sang giai đoạn nặng với những biểu hiện lâm sàng nghiện rượu ngày càng rõ nét hơn. Nghiện rượu ở lứa tuổi trẻ thì rối loạn nhân cách trầm trọng hơn, biểu hiện bệnh não thực tổn do rượu nặng nề hơn, rất nhanh chóng chuyển sang rối loạn tâm thần do nghiện rượu và thường gặp là các trạng thái cấp tính.

Nghiện rượu khi xảy ra ở thời kỳ trước tuổi già diễn biến cũng rất nhanh chóng và dẫn đến bệnh não thực tổn do nhiễm độc. Các trường hợp này ít gặp rối loạn tâm thần cấp tính mà chủ yếu là các triệu chứng rối loạn tâm thần do nghiện rượu mạn tính; các rối loạn về cơ thể cũng xảy ra rất sớm.

Hiện nay, nghiện rượu ở phụ nữ cũng khá phổ biến, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển. Nghiện rượu ở phụ nữ về lâm sàng có nhiều nét riêng biệt. Nhịp độ tăng nhanh và diễn biến nặng hơn ở nam giới. Một số tài liệu khác thì ngược lại, người ta đưa ra những chứng cứ đánh giá nghiện rượu ở phụ nữ là nhẹ hơn ở nam giới (thiếu các yếu tố làm nặng nề thêm). Khác với thèm rượu bệnh lí ở nam giới, phụ thuộc rượu ở nữ giới trong 1-2 năm đầu đã có triệu chứng phụ thuộc thực tổn và hội chứng cai. Biến đổi nhân cách do rượu ở phụ nữ thay đổi với nhịp độ nhanh hơn kèm theo giải tỏa hoạt động giới tính, suy đồi về mặt xã hội.

Thông thường tỉ lệ sử dụng rượu nhiều nhất là từ 20 - 35 tuổi, nhưng sử dụng rượu cao nhất là ở lứa tuổi 35 trở lên.

10.2. Yếu tố di truyền:

Con của những cặp vợ chồng nghiện rượu có nguy cơ nghiện rượu cao gấp 2 lần so với những cặp vợ chồng không nghiện rượu.

Có sự khác biệt về chủng tộc và văn hóa trong khả năng dung nạp rượu. Như nhiều người châu Á thường có các triệu chứng nhiễm độc rượu cấp như đỏ mặt, chóng mặt và nhức đầu chỉ sau khi uống một lượng nhỏ rượu. Một vài nhóm cộng đồng văn hóa như người Do Thái, các người theo đạo Tin lành và một số người châu Á có tỷ lệ lệ thuộc rượu thấp, trong khi một số nhóm khác như người Mỹ bản địa, người Eskimos và một số nhóm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có tỷ lệ cao hơn. 

Các chứng cứ này cho thấy có sự tham gia của yếu tố di truyền nhưng bản chất vẫn chưa được hiểu rõ.

10.3. Yếu tố văn hóa:

Tùy thuộc vào lối sống, phong tục, tập quán của từng dân tộc mà tỷ lệ người nghiện rượu có khác nhau.

10.4. Yếu tố tâm lý - xã hội:

Những người nhân cách bệnh, nhân cách không bền vững dễ bị lệ thuộc không chỉ là rượu mà còn lệ thuộc các chất gây nghiện khác nữa như cà phê, thuốc lá, thuốc phiện,…

Những yếu tố xã hội như hệ thống luật pháp, kinh tế, thái độ xã hội… đều có liên quan đến mức độ phổ biến nghiện rượu trong nhân dân.

10.5. Yếu tố nghề nghiệp:

Nghiện rượu thường gặp ở một nhóm nghề nghiệp như: người lao động giản đơn; công nhân nhà máy rượu, bia; thợ hồ, nghề làm biển, thất nghiệp …đều là nhóm người có nguy cơ nghiện rượu cao.

10.6. Trình độ văn hóa:

Nghiện rượu gặp ở mọi tầng lớp xã hội từ người có trình độ tiểu học, trung học đến người có trình độ đại học.

10.7. Hôn nhân:

Người nghiện rượu có nhiều vấn đề với hôn nhân. Mâu thuẫn gia đình là khó tránh khỏi, tỉ lệ ly hôn ở những người nghiện rượu cao do có hành vi bạo lực trong gia đình.

  1. Điều trị nghiện rượu:

Điều trị nghiện rượu có kết quả hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự giác điều trị và quá trình tái thích ứng hòa nhập vào cộng đồng của người bệnh.

Nghiện rượu, ngoài biểu hiện rối loạn tâm thần còn biểu hiện suy thoái nhân cách nên việc điều trị phải kết hợp với liệu pháp tâm lý.

Việc điều trị của thầy thuốc phải kết hợp chặt chẽ với gia đình, bạn bè và cơ quan của bệnh nhân mới hy vọng có kết quả tốt.

11.1. Nguyên tắc điều trị:

- Sử dụng kết hợp giữa liệu pháp tâm lý và hoàn cảnh môi trường.

- Sử dụng các liệu pháp y học tổng hợp. 

- Các phương pháp cai nghiện rượu bằng thuốc.

- Điều trị chống tái phát.

- Điều trị các rối loạn cơ thể khác.

11.2. Điều trị hội chứng cai rượu:

- Tiếp nhận bệnh nhân tự nguyện hoặc cưỡng bức theo yêu cầu và điều trị nội trú tại các cơ sở y tế.

- Cắt hội chứng cai rượu bằng thuốc Benzodiazepin hoặc Carbamazepin.

Có thể dùng một trong các phác đồ sau:

Phác đồ 1: Seduxen tiêm bắp ngày 2 ống sáng và tối, dùng từ 5 – 7 ngày.

Phác đồ này đơn giản, dễ thực hiện và cho hiệu quả cao. Thuốc dạng tiêm nên có thể dùng cả cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và bệnh nhân đã có rối loạn ý thức, không hợp tác điều trị. Thuốc nên được sử dụng cho bệnh nhân càng sớm càng tốt. Việc dùng thuốc sớm sẽ giúp làm nhẹ bớt hội chứng cai ở bệnh nhân, ngăn chặn sảng rượu xuất hiện. Vì thế, có thể dùng thuốc ngay mà không cần đợi đến khi có kết quả xét nghiệm sinh hóa và huyết học.

Trong các trường hợp bệnh nhân có kích động dữ dội, run và rối loạn ý thức, rối loạn thần kinh thực vật nhiều, hoặc bệnh nhân có các cơn co giật kiểu động kinh thì có thể dùng tới 4 ống Seduxen/ngày. Các trường hợp bệnh nhân xơ gan hoặc viêm gan nặng vẫn có thể dùng seduxen, tuy nhiên không nên vượt quá 20 mg/ngày.

Phác đồ 2: Rivotril 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Rivotril có hiệu quả điều trị cai rượu rất tốt. Tuy nhiên, thuốc chỉ có dạng uống nên chỉ có thể dùng cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và chịu uống thuốc. Vì vậy phác đồ này chỉ dùng cho bệnh nhân chưa có hội chứng cai (chưa ngừng uống rượu), hoặc hội chứng cai nhẹ.

Phác đồ 3: Lexomil 4 viên/ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Hiệu quả cai nghiện rượu của Lexomil tương đối tốt. Tuy nhiên, cũng như rivotril, thuốc chỉ có dạng viên, chỉ dùng cho các bệnh nhân đến sớm, chưa có hội chứng cai hoặc bệnh nhân có hội chứng cai nhẹ.

Phác đồ 4: Carbamazepin 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Carbamazepin có hiệu quả cai rượu tương đương với Benzodiazepin dạng uống (rivotril, lexomil…). Carbamazepin ít được sử dụng trong lâm sàng tâm thần để điều trị cho bệnh nhân nghiện rượu. Lý do là Carbamazepin có thể gây dị ứng chậm. Dị ứng thường xuất hiện sau 10 – 15 ngày dùng thuốc nên thường là dị ứng nặng.

11.3. Điều trị chống tái phát:

Disulfiram (antabus, esperal): là chất gây ức chế chuyển hoá rượu thành CO2 và H20 tạo ra năng lượng và sản phẩm chuyển hóa rượu dở dang là Acetaldehyde. Chất này gây ra nhiều phản ứng khó chịu cho bệnh nhân như đau đầu, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực, hoảng sợ và cảm giác sợ chết. Vì vậy, bệnh nhân sợ uống rượu.

 Cách dùng: uống Disulfiram 150 – 250mg/ngày vào các buổi sáng và cấm bệnh nhân uống rượu dưới mọi hình thức. Thuốc uống kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm và có thể thay thế Disulfiram bằng Metronidazol (klion), kết quả không tốt bằng, nhưng ít tác dụng phụ, rẻ tiền và dễ mua hơn. Cách dùng Metronidazol 0,25g uống ngày 4 – 6 viên, chia làm 2 lần (sáng, tối) và cũng uống kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm.

11.4. Điều trị các rối loạn cơ thể khác:

- Cần điều trị hợp lí các bệnh cơ thể do rượu như: viêm gan, xơ gan do rượu, viêm dạ dày, cao huyết áp, bệnh tim do rượu…

- Cần phải sử dụng vitamin nhóm B như: vitamin B1, B6, B12 đặc biệt là vitamin B1 liều cao ngay từ đầu để khắc phục tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính và trầm trọng ở người nghiện rượu.

  1. Phòng ngừa nghiện rượu:

Truyền thông rộng rãi trong nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng những tác hại của rượu đối với sức khỏe tâm thần cũng như thể chất. Đặc biệt rượu làm hủy hoại nhân cách người nghiện, tha hóa đạo đức, sa sút tâm thần, không còn khả năng làm việc, là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Cần có quy chế quản lý, kiểm soát chặc chẽ trong việc sản xuất, bán mua và tiêu thụ các loại rượu, thức uống có rượu. Cần thiết ban hành đạo luật cấm trẻ em dưới 18 tuổi uống các thức uống có rượu.

Để dự phòng tái nghiện, bệnh nhân phải được điều trị bằng thuốc kháng rượu. Nếu sử dụng đúng chỉ định và đủ thời gian, tỷ lệ thành công có thể lên tới 90%.

- Disulfiram (esperal) là thuốc hiệu quả nhất. Nếu bệnh nhân uống rượu khi đang dùng thuốc thì sẽ có rất nhiều triệu chứng khó chịu như đau đầu dữ dội, chóng mặt, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực dữ dội, hoảng sợ vô cùng mạnh mẽ, sợ chết… Hiện tượng này lặp đi, lặp lại khi bệnh nhân uống rượu, từ đó khiến bệnh nhân hình thành phản xạ sợ rượu.

Cách dùng: Disulfiram uống mỗi sáng 1/2 viên. Thời gian uống thuốc tối thiểu là 24 tháng. Chỉ được dùng Disulfiram khi đã ngừng rượu tuyệt đối ít nhất 24 giờ.

Có thể thay thế Disulfiram bằng:

- Metronidazol: sáng 2 – 3 viên, tối 2 – 3 viên. Thời gian dùng thuốc 18 – 24 tháng. Hiệu quả của metronidazol chỉ là 60 – 70% số trường hợp. Nhiều bệnh nhân uống Metronidazol nhưng vẫn có thể uống rượu được.

- Naltrexon: là thuốc kháng opioid, dùng để điều trị củng cố cho bệnh nhân nghiện ma túy nhóm opioid như morphin, heroin… Thuốc cho kết quả tốt trong điều trị chống tái nghiện rượu. Cách dùng: Naltrexone (natrex, revia) 1 viên/ngày, uống buổi sáng.

Thời gian uống thuốc để điều trị chống tái nghiện rượu là trên 2 năm (chống tái nghiện ma túy là trên 6 năm).

Nói chung, để điều trị chống tái nghiện rượu thành công, phải được bảo đảm bệnh nhân uống thuốc thực sự. Người nhà bệnh nhân (bố, mẹ hoặc vợ) phải trực tiếp cho bệnh nhân uống thuốc hàng ngày.

  1. LOẠN THẦN DO RƯỢU:
  2. Khái niệm loạn thần do rượu:

Thuật ngữ rối loạn tâm thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu lên não. Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu dài gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hoá trong cơ thể. Loạn thần xuất hiện không những do ngộ độc rượu khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi lượng rượu trong máu không có hoặc có rất thấp (Wictor M., 1953).

Về lâm sàng loạn thần do rượu có thể chia ra: sảng rượu, ảo giác do rượu, hoang tưởng do rượu, hội chứng Korsakov do rượu, bệnh não do rượu ...(Sumski N. G., 1963).

Về tiến triển người ta phân chia rối loạn tâm thần do rươụ thành 3 loại khác nhau: loại tiến triển tạm thời và không thường xuyên, loại tái phát nhiều lần và loại tiến triển mạn tính.

Các rối loạn tâm thần có tổn thương não do rượu bao gồm:

- Bệnh loạn tâm thần Korsakov.

- Bệnh giả liệt do rượu.

- Bệnh não thực tổn Gayet-Wernicke.

Theo ICD-10, tuỳ theo triệu chứng nào nổi bật trên lâm sàng mà đặt mã các chẩn đoán thể loạn thần như sau:

F10.4 Hội chứng cai rượu với mê sảng (Sảng rượu)

F10.40 Sảng rượu không co giật.

F10.41 Sảng rượu có co giật

F10.50 Rối loạn loạn thần do rượu giống phân liệt

F10.51 Rối loạn loạn thần do rượu, hoang tuởng chiếm ưu thế

F10.52 Rối loạn loạn thần do rượu, ảo giác chiếm ưu thế

F10.53 Rối loạn loạn thần do rượu, chủ yếu đa dạng

F10.54 Rối loạn loạn thần do rượu, các triệu chứng trầm cảm chiếm ưu thế

F10.55 Rối loạn loạn thần do rượu, các triệu chứng hưng cảm chiếm ưu thế

F10.56 Rối loạn loạn thần do rượu, trạng thái hỗn hợp

F10.7 Trạng thái loạn thần di chứng và khởi phát muộn do rượu.

F10.8: Các rối loạn tâm thần và hành vi khác do rượu.

F10.9: Rối loạn tâm thần và hành vi không biệt định do rượu.

  1. Sảng rượu:

2.1. Đại cương sảng rượu:

Sảng rượu hay còn gọi là trạng thái cai rượu với mê sảng. Đây là một trạng thái lú lẫn ngộ độc ngắn, nhưng đôi khi đe doạ tính mạng, kèm theo nhiều rối loạn cơ thể. Sảng rượu là hậu quả của cai rượu tuyệt đối hoặc tương đối ở những người nghiện rượu nặng, lâu ngày, thường khởi đầu sau cai rượu.

Các dấu hiệu tiền triệu điển hình bao gồm mất ngủ, run và sợ hãi. Cũng có thể co giật do cai xuất hiện trước khi bệnh khởi phát.

Các triệu chứng điển hình là hoang tưởng, các ảo giác sống động, kích động, mất ngủ, sốt nhẹ, rối loạn hệ thần kinh thực vật. Các triệu chứng trên xuất hiện đột ngột trong vòng 2-3 ngày và lên đến đỉnh điểm vào ngày 4-5. Bệnh nhân thường thấy các ảo giác sinh động với hình ảnh các côn trùng hoặc các sinh vật bé nhỏ hoặc các loại rối loạn tri giác khác đi kèm tình trạng lo lắng và kích động. Mặc dù sảng rượu có thể kéo dài từ 4-5 tuần, phần lớn các trường hợp thường ổn định sau 3 ngày và nếu điều trị tốt thì tỷ lệ tử vong khoảng 1%.

2.2. Chẩn đoán sảng rượu: F10.4

  1. Mê sảng;
  2. Tăng hoạt động hệ thần kinh thực vật rõ rệt: tim nhanh, vã mồ hôi, sốt, lo âu hoặc mất ngủ..
  3. Các dấu hiệu đi kèm: ảo giác sống động, thường là ảo thị, ảo giác xúc giác hoặc ảo khứu, hoang tưởng, kích động, run, co giật (thường xuất hiện trước mê sảng);
  4. Các biểu hiện đặc trưng: các hoang tưởng không hệ thống, ảo thị với hình ảnh các sinh vật nhỏ hoặc côn trùng, ảo giác xúc giác.

Bao gồm :  - F10.40: Sảng rượu không có co giật

                  - F10.41: Sảng rượu có co giật

2.3. Các xét nghiệm cần làm:

Tổng phân tích tế bào máu, ion đồ, calcium và magnesium trong máu, chức năng gan, BUN, creatinine, glucose lúc đói, protein toàn phần, thời gian prothrombin, albumine, nồng độ Vitamin B12, nồng độ folate, amylase huyết tương, tổng phân tích nước tiểu, ECG, EEG, XQ phổi, siêu âm, chọc dò tuỷ sống, CT-scan sọ não.

2.4. Điều trị sảng rượu:

2.4.1. Ghi nhận sinh hiệu mỗi 6 giờ.

2.4.2. Quan sát bệnh nhân đều đặn.

2.4.3. Giảm các yếu tố kích thích.

2.4.4. Điều chỉnh điện giải, điều trị các bệnh đi kèm như nhiễm trùng, chấn thương sọ não.

2.4.5. Nếu bệnh nhân mất nước thì bù nước.

2.4.6. Chlordiazepoxide (Librium) 25-100mg uống mỗi 6 giờ (có thể sử dụng các thuốc bình thản khác nhưng vấn đề còn bàn cải). Sử dụng trong các trường hợp kích động, run, hoặc gia tăng các dấu hiệu sinh tồn (nhiệt độ, mạch, huyết áp).

2.4.7. Thiamine 100mg uống 1-3 lần/ngày.

2.4.8. Folate acide 1mg uống.

2.4.9. Multivitamine ngày 1 lần.

2.4.10. Magnesium sulfat 1mg TB mỗi 6 giờ trong 2 ngày (ở bệnh nhân có cơn co giật do ngưng rượu).

2.4.11. Sau khi tình trạng bệnh nhân ổn định giảm liều Chlordiazepoxide 20% mỗi 2-7 ngày.

2.4.12. Sử dụng thuốc ngủ để bệnh nhân ngủ yên.

2.4.13. Điều trị suy dinh dưỡng nếu có.

2.4.14. Liều của Benzodiazepine thay đổi rất nhiều giữa các bệnh nhân do bản chất khác nhau về di truyền, về lượng rượu uống vào, các chất dùng đồng thời với rượu. Do nhiều người bị suy chức năng gan nên khó xác định được thời gian bán huỷ của thuốc ngủ.

2.4.15. Nói chung, tránh dùng thuốc chống loạn thần do nó có thể làm xuất hiện cơn động kinh. Nếu bệnh nhân kích động, có các triệu chứng loạn thần và có dấu hiệu nhiễm độc Benzodiazepine (đi loạn choạng, nói lè nhè) có thể dùng thuốc chống loạn thần hoạt lực mạnh như Haloperidol, Fluphenazin, Risperidal vì ít làm xuất hiện cơn động kinh hơn các thuốc chống loạn thần hoạt lực thấp.

  1. Ảo giác do rượu.

3.1. Đặc điểm lâm sàng:

Hình ảnh lâm sàng nổi bật của ảo giác do rượu là ảo thanh chiếm ưu thế. Nội dung của ảo thanh thường gặp là nhữnh lời đe doạ hoặc chửi rủa, sỉ nhục bệnh nhân trong khi ý thức không bị rối loạn, định hướng thời gian không gian, bản thân còn rõ ràng. Ảo giác chi phối hành vi của bệnh nhân, người bệnh mất khả năng phê phán với ảo giác. Ảo thanh do rượu có thể tiến triển cấp tính từ vài ngày đến một tháng hoặc bán cấp tính từ 1 – 3 tháng và mạn tính từ trên 3 tháng trở lên. Ảo thanh này rất nguy hiểm cho bệnh nhân và những người xung quanh như: tự sát, đập phá, đốt nhà, giết người. Đôi khi, có những hoang tưởng bị truy hại, hoang tưởng liên hệ nhưng không bền vững và nhất thời.

3.2. Điều trị:

Các bệnh nhân ảo giác do rượu có hành vi nguy hiểm cần phải điều trị nội trú tại các bệnh viện chuyên khoa tâm thần, phải ngừng sử dụng rượu, cai rượu bằng phương pháp giải độc từ từ và sử dụng vitamin nhóm B liều cao.

Điều trị bằng các thuốc an thần mạnh như: haloperidol, tisercin, olanzapin. Có thể dùng đường uống hoặc đường tiêm. Thời gian kéo dài cho đến khi hết ảo giác.

Phác đồ 1: Haloperidol và pipolphen. Trộn lẫn 2 loại thuốc này trong cùng một xi lanh (có thể thêm seduxen), tiêm bắp cho bệnh nhân sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều. Dùng thuốc cho đến khi bệnh nhân hết hoang tưởng và ảo giác (thường là 5 – 7 ngày). Haloperidol có tác dụng chữa hoang tưởng và ảo giác do cai rượu, còn pipolphen có tác dụng ngăn ngừa tác dụng ngoại tháp do haloperidol gây ra. Phác đồ này có hiệu quả cao, tin cậy, nhưng haloperidol làm cho bệnh nhân run nhiều hơn, giảm ngưỡng co giật của bệnh nhân. Điều này không đáng ngại vì đã dùng kết hợp với Seduxen hoặc các thuốc Benzodiazepin khác.

Phác đồ 2: Olanzapin 1 viên/ngày, uống vào buổi tối. Olanzapin có ưu điểm chống loạn thần mạnh, nhưng không gây ra ngoại tháp, vì vậy không cần dùng kèm các thuốc chống ngoại tháp như trihex. Tuy nhiên phác đồ này chỉ áp dụng được cho bệnh nhân chịu uống thuốc.

Sử dụng vitamin B1 trong điều trị hội chứng cai rượu

Người nghiện rượu có tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính. Bệnh nhân có thể có viêm cơ tim cấp, viêm đa dây thần kinh và rất nhiều tổn thương khác do thiếu vitamin B1 gây ra. Trong điều trị hội chứng cai rượu, chúng ta bắt buộc phải cho vitamin B1 liều cao (trên 200 mg/ngày). Một số chế phẩm có chứa vitamin B1 thường dùng:

- Vitamin B1 0,025mg hoặc 0,1mg, tiêm bắp sáng và tối.

- Neurobion tiêm bắp sáng và tối. Đây là thuốc có chứa vitamin B1, vitamin B6, vitamin B12 do đó rất thuận lợi cho điều trị hội chứng cai rượu.

- Ancopir tiêm bắp sáng, tối. Thuốc này cũng chứa vitamin B1, vitamin B6 và vitamin B12 như Neurobion.

- Vitamin B1, vitamin 3B, ancopir, Neurobion… đều có dạng viên.

Bù nước và điện giải cho bệnh nhân có hội chứng cai rượu

Ringer lactat truyền tĩnh mạch chậm hoặc Natri clorua 0,9% cũng truyền tĩnh mạch chậm.

Khi đã có xét nghiệm đường huyết cho thấy Glucose máu của bệnh nhân không cao thì ta có thể cho thêm các dung dịch huyết thanh ngọt như dextrose, glucose. Tuy nhiên chỉ nên cho huyết thanh ngọt đẳng trương (dextrose 5%, glucose 5%).

  1. Hoang tưởng do rượu.

Hoang tưởng do rượu là một bệnh loạn thần, biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hội chứng paranoia, ảo giác paranoid với các hoang tưởng bị chi phối, ảo thanh và không có rối loạn ý thức.

4.1. Đặc điểm lâm sàng:

Hoang tưởng ghen tuông và hoang tưởng bị truy hại là những triệu chứng chủ yếu. Nội dung của hoang tưởng liên quan đến các sự vật có thật xung quanh bệnh nhân như: vợ, con, hàng xóm, đồng nghiệp và bạn bè. Người bệnh rất đa cảm, họ luôn hoảng sợ, hoang tưởng luôn chi phối hành vi và thường tấn công người khác. Đa số các hoang tưởng đi kèm theo ảo thanh, một số khác có ảo thị. Tiến triển của hoang tưởng chia làm 3 loại: hoang tưởng cấp tính thường kéo dài 3 - 4 tuần hoặc bán cấp tính kéo dài 2 - 3 tháng và mạn tính kéo dài trên 3 tháng đến hàng năm.

4.2. Điều trị:

Giống như điều trị ảo giác do rượu. 

  1. Các bệnh não thực tổn mạn tính do rượu:

5.1. Bệnh loạn thần Korsakov:

Bệnh loạn thần Korsakov là một trong những bệnh não thực tổn do rượu, biểu hiện chủ yếu bằng hội chứng mất trí nhớ và viêm đa dây thần kinh, xuất hiện vào giai đoạn cuối cùng của bệnh nghiện rượu. Bệnh nhân mất trí nhớ hoàn toàn, không thể tiếp nhận được các thông tin mới, khi trả lời câu hỏi bệnh nhân thường bịa ra những sự kiện thay thế cho khoảng trống trí nhớ (nhớ bịa). Người ta nhận thấy trong bệnh loạn thần Korsakov sự thiếu hụt vitamin nhóm B rất rõ nên sử dụng vitamin nhóm B liều cao tiêm bắp thịt hàng ngày từ 1g trở lên.

Có thể cho thêm Piracetam 2 - 4 gam/ ngày và dùng kéo dài trên 3 tháng, thậm chí tới 1 năm.

5.2. Bệnh giả liệt do rượu:

Đây là loại bệnh não thực tổn mạn tính do rượu, hiếm gặp và rất nặng. Bệnh cảnh lâm sàng giống như bệnh liệt tuần tiến do giang mai. Nguyên nhân của bệnh chủ yếu là do thiếu vitamin nhóm B trầm trọng. Bệnh nhân có giảm chú ý, giảm trí nhớ, có hoang tưởng khuyếch đại, có tổn thương khu trú thần kinh (yếu đầu chi, khó nói và rối loạn phản xạ). Các rối loạn này cố định và tiến triển nặng dần lên mặc dù trạng thái nhiễm độc rượu đã hết và điều trị không có kết quả.

5.3. Bệnh não thực tổn Gayet – Wernicke:

Bệnh não thực tổn do rượu Gayet –Wernicke là một bệnh mạn tính, hiếm gặp, biểu hiện bằng trạng thái lú lẫn, hưng phấn ngôn ngữ, vận động, có cơn co giật kiểu động kinh, rối loạn trí nhớ kiểu Korsakov và các tổn thương khu trú thần kinh như: thất điều vận động, rối loạn ngoại tháp, rối loạn chức năng vận nhãn./.