Biên soạn: Nguyễn Thanh Quang Vũ
1. Lịch sử
Từ thời cổ đại, trầm cảm được nhận dạng trong một bệnh chung là rối loạn cảm xúc. Đến thời Hippocrates (400 - trước công nguyên) đã mô tả rối loạn cảm xúc thành hai dạng là “hưng cảm” và “sầu uất”. Sau đó các tác giả đã xác định rối loạn cảm xúc không tồn tại đơn lẻ, Arataeus (120-180 sau công nguyên) lần đầu tiên đã đưa ra nguồn gốc của rối loạn cảm xúc như “nội sinh và ngoại sinh” hoặc “phản ứng” gợi ý rằng một số trường hợp có nguồn gốc sinh học và số khác là hậu quả của yếu tố tâm lý. Nhà tâm thần học nổi tiếng người Đức, Emil Kraepelin, đã phân biệt bệnh hưng trầm cảm với mất trí sớm (tâm thần phân liệt) trên nền tảng của thời gian bị bệnh: giai đoạn hồi phục xảy ra giữa các giai đoạn bệnh, tiến triển chậm hơn. Đến những năm 1980 việc nghiên cứu những thay đổi sinh học được tiến hành rộng rãi và đã có những thành quả quan trọng. Sự hiểu biết của chúng ta về sinh học thần kinh ngày càng rộng, nhiều vấn đề đã được sáng tỏ [6].
Trong nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây, hiểu biết về trầm cảm ngày càng được rõ ràng và chính xác hơn. Năm 1992, khi xây dựng hệ thống phân loại bệnh tật lần thứ 10, các nhà tâm thần học trên thế giới đã thống nhất được các quan điểm, các trường phái và đưa ra khái niệm trầm cảm khá rõ ràng đồng thời mô tả một cách cụ thể tiêu chuẩn chẩn đoán xác định các mức độ của rối loạn trầm cảm (RLTC) [16].
2. Khái niệm
Rối loạn trầm cảm (RLTC) là trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện bằng khí sắc trầm, mất quan tâm thích thú, giảm năng lượng, dẫn đến tăng sự mệt mỏi. RLTC chiếm một vị trí quan trọng trong ngành tâm thần học, là rối loạn thường gặp trong lĩnh vực thực hành của các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần cũng như thầy thuốc đa khoa [1]. Vai trò RLTC ngày càng quan trọng trong việc gây nên gánh nặng bệnh tật cho nhân loại. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) thì trầm cảm đứng hàng thứ ba trong năm 2004, dự báo đứng hàng thứ hai đến năm 2020 và sẽ chiếm vị trí đầu tiên vào năm 2030 về nguyên nhân gây ảnh hưởng đến gánh nặng bệnh tật, tử vong của nhân loại [15],[23],[27].
2.1. Trầm cảm
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, với các biểu hiện chán nản, mất hứng thú hoặc niềm vui, giảm năng lượng, cảm giác tội lỗi hay giá trị bản thân thấp, giấc ngủ bị rối loạn, kém tập trung, nhưng khó chẩn đoán và phân biệt. Trầm cảm có thể chỉ là một cơn trầm cảm gặp trong nhiều bệnh lý tâm thần như rối loạn cảm xúc lưỡng cực, nhưng cũng có thể là cơn trầm cảm gặp trong rối loạn trầm cảm [5],[15],[22].
2.2. Hội chứng trầm cảm điển hình
Trầm cảm biểu hiện trên lâm sàng bằng hội chứng trầm cảm. Một hội chứng trầm cảm điển hình có những triệu chứng sau [2]:
Cảm xúc ức chế: trương lực cảm xúc giảm, bệnh nhân buồn rầu rĩ, mau mỏi mệt, không muốn làm việc, không thấy hứng thú trong lao động, chán ăn, hoạt động tình dục giảm, mọi việc dường như vô nghĩa, mất các thích thú cũ, cuộc sống gia đình xã hội trở nên nhàm chán, tương lai đen tối.
Tư duy ức chế: suy nghĩ chậm chạp, quá trình liên tưởng khó khăn, ý tưởng nghèo nàn, bệnh nhân khó phát triển các ý tứ của mình, khó tập trung tư tưởng, có nhiều ý tưởng tự ti, tự buộc tội, bệnh nhân trở nên vô vọng, có thể có những ý tưởng đen tối như ý tưởng tự sát.
Vận động ức chế: vẻ mặt bệnh nhân trầm buồn, lờ đờ chậm chạp, vẻ mặt và dáng điệu nghèo nàn, giọng nói trầm và đơn điệu, bệnh nhân trông già trước tuổi, giảm động tác, trong trường hợp nặng có thể dẫn đến bất động.
Các triệu chứng kết hợp: các triệu chứng thường gặp như lo âu, bệnh nhân cảm thấy căng thẳng mệt mỏi với nhiều rối loạn thần kinh thực vật như hồi hộp, nhịp tim tăng, đau vùng trước tim, chóng mặt, đau đầu, khô miệng, táo bón, chán ăn, gầy ốm, mất ngủ, thường là mất ngủ cuối giấc, bệnh nhân thức dậy với các triệu chứng lo âu.
2.3. Rối loạn trầm cảm
RLTC là giai đoạn trầm cảm chủ yếu (Major depression) được đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến sự tăng mệt mỏi và giảm hoạt động, kèm theo một số triệu chứng phổ biến về rối loạn hành vi nhận thức, sự tập trung chú ý, tình dục, giấc ngủ và ăn uống; các triệu chứng này phải kéo dài ít nhất 2 tuần. Trong hệ thống phân loại bệnh tật ICD-10, sử dụng thuật ngữ "giai đoạn trầm cảm" với các mức độ: nhẹ (F32.0), vừa (F32.1) và nặng (F32.2 và F32.3) [5],[14],[16].
3. Bệnh nguyên
Cho đến nay bệnh nguyên và bệnh sinh của RLTC còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa có giả thuyết nào giải thích được đầy đủ, nhiều tác giả đã khái quát giải thích cơ chế bệnh sinh RLTC theo 2 nhóm giả thuyết: giả thuyết về sinh học và giả thuyết về tâm lý - xã hội.
3.1. Các giả thuyết về sinh học
3.1.1. Di truyền
Gen di truyền đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của RLTC, nhưng vai trò di truyền của gen tuân theo một cơ chế rất phức tạp [5]. Theo Kaplan & Sadock có hai gen được nhận biết gây nên tính dễ tổn thương với RLTC, gen thứ nhất là gen MAOA chịu trách nhiệm về chức năng của monoamine oxydase và gen thứ hai là gen vận chuyển serotonin (5HTT), vì vậy giải thích mô hình stress - cơ địa trầm cảm có thể phù hợp [7]. Các nghiên cứu tần suất RLTC ở những trường hợp sinh đôi, phát hiện yếu tố di truyền có liên quan đến RLTC. Tỷ lệ RLTC nặng cao nhất trong số những người thân bậc một (cha mẹ, con) với người bệnh. Tỷ lệ bệnh ở sinh đôi cùng trứng là 65% - 75%, trong khi đó trẻ sinh đôi khác trứng là 14% - 19% [11].
3.1.2. Rối loạn dẫn truyền thần kinh
Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy các thay đổi về nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh trung ương như: serotonin, noradrenalin, dopamin... (trong máu, nước tiểu và dịch não tủy) đã gặp trong RLTC. Các bất thường này cho phép chúng ta nghĩ rằng RLTC là sự phối hợp bất thường của các amin sinh học.
- Serotonin: người ta nhận thấy trong RLTC nồng độ serotonin tại khe synap thần kinh ở vỏ não giảm sút rõ rệt so với người bình thường (có trường hợp chỉ còn bằng 30%). Bên cạnh đó, nồng độ các sản phẩm chuyển hóa của serotonin trong máu, dịch não tủy cũng giảm thấp rõ rệt.
- Noradrenalin: trong RLTC mật độ thụ thể beta adrenergic giảm sút đáng kể so với người bình thường.
- Dopamin: nhiều bằng chứng cho thấy hoạt tính của dopamin giảm trong RLTC và tăng trong hưng cảm.
3.1.3. Rối loạn nội tiết
- Trục tuyến thượng thận: mối liên quan giữa tăng tiết cortisol và RLTC đã được ghi nhận từ lâu, khoảng 50% bệnh nhân RLTC được ghi nhận cortisol không giảm khi tiêm với một liều Dexamethasone [11].
- Trục tuyến giáp: Những nghiên cứu hormone tuyến giáp cho thấy nồng độ của thyroxin tự do (FT4) ở trẻ vị thành niên RLTC thấp hơn so với nhóm chứng tương đương, kết quả gợi ý là nồng độ FT4 giảm mặc dù chức năng tuyến giáp vẫn duy trì trong giới hạn bình thường, những thay đổi giảm của hormone tuyến giáp có thể góp phần vào biểu hiện lâm sàng của RLTC [7].
3.2. Các giả thuyết về tâm lý - xã hội
3.2.1. Quan hệ gia đình và xã hội
Tính dễ tổn thương di truyền kết hợp với rất nhiều yếu tố xã hội như mức độ mâu thuẫn trong gia đình, lạm dụng hoặc ngược đãi, hoàn cảnh kinh tế xã hội và việc ly thân hoặc ly dị của bố mẹ có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc xuất hiện các RLTC ở trẻ em, bằng chứng cho thấy trẻ trai có bố chết khi trẻ dưới 13 tuổi có nguy cơ bị RLTC lớn hơn nhóm chứng. Những tật chứng về tâm lý xã hội gặp ở RLTC trẻ em thường kéo dài sau khi hồi phục khỏi giai đoạn trầm cảm (trung bình 9 tháng đến một năm với giai đoạn trầm cảm ở trẻ em hoặc vị thành niên) [7].
3.2.2. Yếu tố nhận thức
Những người RLTC thường thể hiện những nhận thức âm tính, sai (ví dụ: tôi chẳng bao giờ làm được cái gì đúng), trị liệu nhận thức làm thay đổi các nhận thức đó, có thể cải thiện các triệu chứng trầm cảm ở nhiều người [8].
4. Hậu quả của RLTC
4.1. Tác động của RLTC lên sức khỏe con người
RLTC có thể có một tỷ lệ tử vong sớm do bệnh cơ thể, các số liệu bệnh sinh cho rằng những người RLTC chủ yếu trên 55 tuổi có tỷ lệ tử vong cao hơn 4 lần so với người bình thường ở cùng nhóm tuổi này. RLTC chủ yếu có thể được phối hợp với các bệnh lý cơ thể mạn tính, có khoảng 20 - 25% trong số các bệnh nhân RLTC có một bệnh cơ thể (đái đường, nhồi máu cơ tim, ung thư...). RLTC chủ yếu có thể xuất hiện trong thời gian phát triển của bệnh cơ thể, điều trị bệnh cơ thể phức tạp hơn và tiên lượng xấu hơn nếu có biểu hiện của RLTC chủ yếu kết hợp, đồng thời có nhiều bệnh nhân RLTC dẫn tới lạm dụng rượu, ma túy [5].
4.2. Tự sát
Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát là một trong bảy triệu chứng phổ biến để chẩn đoán RLTC theo tiêu chuẩn chẩn đoán ICD-10 [16]. Đồng thời ý tưởng tự sát hoặc toan tự sát hoặc tự sát cũng là một trong chín triệu chứng chẩn đoán theo tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm của hiệp hội Tâm thần Mỹ (DSM-IV) [9]. RLTC là nguyên nhân hàng đầu gây ra tự sát, khoảng 75% các trường hợp tự sát là do RLTC, đặc biệt có 15% số bệnh nhân RLTC sẽ chết vì tự sát [5]. Ở người cao tuổi thì vấn đề hậu quả tự sát của RLTC được thể hiện rõ nét hơn, các nghiên cứu chỉ ra rằng phần lớn (> 80%) những người già tự sát đã có trầm cảm điển hình xuất hiện trước đó. RLTC được xem là yếu tố nguy cơ độc lập quan trọng cho tự sát [3]. Ở Việt Nam theo nghiên cứu của Nguyễn Kim Việt cho thấy hành vi tự sát chiếm đến 23,2% ở các bệnh nhân RLTC trên 45 tuổi [17]. Ở Hoa Kỳ, tự sát là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây tử vong ở vị thành niên. Ý tưởng, hành vi và toan tự sát thường xuyên có liên quan đến RLTC [7]. Có khoảng 40 - 80% số trường hợp tự sát ở lứa tuổi vị thành niên có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC [5]. Ở Mỹ 40-70% số người tự sát là do bị RLTC, ở Australia là 70%, ở Việt Nam theo một số thống kê ban đầu khoảng 20% [12].
4.3. Tác động của RLTC lên kinh tế và xã hội
RLTC kéo dài gây tác động tiêu cực rất lớn đến kinh tế của bản thân và gia đình của người bệnh. Những tác động khác nhau của RLTC sẽ làm tăng nguy cơ cho các hộ gia đình rơi vào khó khăn kinh tế nghiêm trọng, đồng thời gây ra hậu quả lớn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế [20]. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) thì rối loạn trầm cảm đứng hàng thứ ba gây nên gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu trong năm 2004, dự báo đến năm 2020 thì trầm cảm đứng hàng thứ hai về nguyên nhân gây ảnh hưởng đến gánh nặng bệnh tật, tử vong của nhân loại và sẽ chiếm vị trí đầu tiên vào năm 2030 [15],[23],[27].
5. Chẩn đoán
Hiện nay, chẩn đoán rối loạn trầm cảm đã được xác định trong tâm thần học bởi hai hệ thống chẩn đoán là: hệ thống chẩn đoán của hiệp hội Tâm thần Mỹ (DSM-IV) và hệ thống chẩn đoán trong bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD-10) [3].
5.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC theo ICD-10
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây chẩn đoán RLTC đều được áp dụng các nguyên tắc chẩn đoán giai đoạn trầm cảm được mô tả trong ICD-10 [13].
Tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC theo ICD-10 của Tổ chức y tế thế giới (1992) có giá trị lâm sàng để chẩn đoán các mức độ RLTC (nhẹ, vừa và nặng) và được sử dụng cho nhiều nghiên cứu cộng đồng [24].
Trong ICD-10, RLTC được xếp tại mục F.32, nằm trong phần rối loạn khí sắc, RLTC gồm các triệu chứng đặc trưng và phổ biến sau [16]:
- 3 triệu chứng đặc trưng của RLTC:
- Giảm khí sắc.
- Mất mọi quan tâm thích thú.
- Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động.
- 7 triệu chứng phổ biến của RLTC:
- Giảm sút sự tập trung, chú ý.
- Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.
- Những ý tưởng bị tội, không xứng đáng.
- Nhìn vào tương lai thấy ảm đạm, bi quan.
- Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
- Rối loạn giấc ngủ.
- Ăn ít ngon miệng.
- Chẩn đoán các mức độ RLTC:
- RLTC mức độ nhẹ (F32.0):
- Có 2/3 triệu chứng đặc trưng của RLTC và 2/7 triệu chứng phổ biến, kéo dài ít nhất 2 tuần.
- Khó tiếp tục công việc thường ngày và hoạt động xã hội nhưng có khả năng không ngừng hoạt động (có hoặc không kèm theo các triệu chứng cơ thể của RLTC).
- RLTC mức độ vừa (F32.1):
- Có 2/3 triệu chứng đặc trưng của RLTC và 3/7 triệu chứng phổ biến, kéo dài ít nhất 2 tuần.
- Gây nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, nghề nghiệp (có thể có hoặc không kèm theo các triệu chứng cơ thể của RLTC).
- RLTC mức độ nặng (F32.2):
- Có 3/3 triệu chứng đặc trưng của RLTC và ít nhất 4/7 triệu chứng phổ biến, kéo dài ít nhất 2 tuần.
- Hội chứng cơ thể hầu như luôn luôn có mặt. Người bệnh ít khả năng tiếp tục công việc gia đình, xã hội và nghề nghiệp.
- Giai đoạn RLTC nặng có triệu chứng loạn thần (F32.3):
- Thoả mãn các tiêu chuẩn đã nêu trong giai đoạn RLTC nặng.
- Có các hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ RLTC (hoang tưởng, ảo giác có thể phù hợp hoặc không phù hợp với khí sắc).
5.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm nặng DSM-IV
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm nặng theo DSM-IV như sau [9]:
- Ít nhất có năm trong các triệu chứng sau đây hiện diện trong cùng một giai đoạn là 2 tuần và biểu hiện một sự thay đổi chức năng trước đó. Đồng thời, có ít nhất 1 trong các triệu chứng hoặc của khí sắc trầm hoặc của sự mất quan tâm, mất khoái cảm.
(1) Khí sắc trầm suốt ngày, hầu hết các ngày, dù được xác định bởi cảm nhận chủ quan (ví dụ: cảm giác buồn hoặc trống rỗng) lẫn quan sát được bởi người khác. Chú ý: ở trẻ em và thanh thiếu niên có thể là khí sắc kích thích.
(2) Mất quan tâm thích thú một cách đáng kể trong hầu hết tất cả các hoạt động trong ngày, gần như mỗi ngày (dù được xác định bởi cả chủ quan hoặc quan sát được bởi người khác).
(3) Giảm cân một cách rõ ràng khi không ăn kiêng hoặc tăng cân (ví dụ thay đổi 5% trọng lượng cơ thể trong vòng 1 tháng); hoặc giảm, hoặc tăng ngon miệng gần như hàng ngày. Chú ý: ở trẻ em, cần tính đến việc thất bại trong việc lên cân như mong đợi.
(4) Mất ngủ hoặc ngủ nhiều gần như các ngày.
(5) Kích thích hoặc chậm chạp tâm thần vận động gần như hàng ngày (có thể quan sát được bởi người khác, không chỉ đơn thuần những cảm giác bồn chồn chủ quan hoặc trở nên chậm chạp).
(6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu hết các ngày.
(7) Cảm giác vô dụng hoặc thừa thãi hoặc tội lỗi không thích đáng (đây có thể là hoang tưởng) hầu hết các ngày (không đơn thuần là tự trách mắng hoặc cảm giác tội lỗi vì đang bị bệnh).
(8) Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung, hoặc do dự hầu hết các ngày (cả bằng chủ quan hoặc quan sát được bởi người khác).
(9) Nghĩ đi, nghĩ lại về cái chết (không đơn giản là sợ chết), ý tưởng tự sát không với kế hoạch cụ thể nào lặp đi lặp lại, hoặc toan tự sát hoặc một kế hoạch để tự sát thành công.
- Các triệu chứng không đáp ứng tiêu chuẩn cho một giai đoạn khí sắc hỗn hợp.
- Các triệu chứng gây ra nỗi đau khổ rõ ràng trên lâm sàng hoặc suy giảm chức năng xã hội, nghề nghiệp, hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.
- Các triệu chứng không do các tác động sinh lý của một chất (ví dụ lạm dụng ma túy, thuốc) hoặc bệnh lý cơ thể (như suy tuyến giáp).
- Các triệu chứng không giải thích tốt hơn do tang tóc (nghĩa là sau sự mất người thân yêu các triệu chứng dai dẵng quá 2 tháng hoặc đặc trưng bởi sự suy giảm rõ rệt sự hoạt động, bận tâm bệnh hoạn cho là không xứng đáng, có ý nghĩ tự sát, các triệu chứng loạn thần hoặc tâm thần vận động chậm lại).
5.3. Các thang đánh giá RLTC
5.3.1. Thang Beck Depression Inventory (BDI)
Thang BDI là thang đánh giá RLTC do Aaron T. Beck và cộng sự xây dựng năm 1961 gồm 21 câu hỏi, sau đó phiên bản rút gọn 13 câu hỏi được giới thiệu và áp dụng vào năm 1972, đến năm 1979 một phiên bản sửa đổi BDI-II (bản quyền vào năm 1978) được xuất bản. Qua tổng hợp hơn 2000 nghiên cứu thực nghiệm đã sử dụng chỉ số BDI của 28 quốc gia trên thế giới cho thấy thang BDI đánh giá RLTC có hiệu quả cao cho cả lâm sàng và cận lâm sàng. Thang BDI áp dụng đánh giá cho cả cá nhân và ý nghĩa quốc gia. Tuy nhiên, phiên bản BDI năm 1961 có ý nghĩa thấp hơn và chỉ đánh giá vào thời điểm phỏng vấn, trong khi đó thang đánh giá BDI-II đánh giá cho cả 2 tuần gần đây. Đồng thời, qua tổng hợp cho thấy thang đánh giá BDI-II có chỉ số alpha có tính ổn định hơn so với thang BDI phiên bản đầu tiên (năm 1961) và phiên bản rút gọn (năm 1972) [19].
- Bảng tổng hợp các nghiên cứu đánh giá thang BDI-II (phiên bản năm 1978)
|
Nước |
Số lượng |
Thang BDI-II |
|||
|
Mẫu Nghiên cứu |
Số lượng Nghiên cứu |
Điểm trung bình |
Độ lệch chuẩn |
Hệ số Cronbach’s alpha |
|
|
Argentina |
608 |
2 |
8,46 |
7,26 |
0,86 |
|
Australia |
1343 |
3 |
9,55 |
7,50 |
0,86 |
|
Brazil |
3203 |
6 |
8,47 |
6,69 |
0,83 |
|
Canada |
139 |
3 |
7,53 |
4,61 |
-- |
|
Greece |
98 |
1 |
8,17 |
6,69 |
0,86 |
|
Japan |
116 |
2 |
10,99 |
8,04 |
-- |
|
Mexico |
1012 |
12 |
7,64 |
7,58 |
-- |
|
Netherlands |
10 |
1 |
1,00 |
1,10 |
-- |
|
Spain |
2407 |
5 |
6,44 |
5,81 |
0,83 |
|
Turkey |
1514 |
4 |
13,06 |
7,88 |
-- |
|
United Kingdom |
47 |
1 |
4,60 |
4,20 |
-- |
|
USA |
1602 |
13 |
8,56 |
6,63 |
0,86 |
|
Hong-Kong |
675 |
3 |
10,86 |
7,90 |
0,86 |
|
Tổng cộng |
12774 |
56 |
8,81 |
6,88 |
0,85 |
Nguồn The Beck Depression Inventory in 28 Countries: A Meta-Analysis [19]
Thang BDI-II là một trong những công cụ được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá trầm cảm [19]. Các nghiên cứu đã cho thấy thang đo này có độ tin cậy cao, với hệ số Cronbach’s alpha dao động trong khoảng 0,87-0,94. Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy rằng thang BDI-II có thể được sử dụng thích hợp ở các nền văn hóa khác nhau, ngay cả trong những nền văn hóa có sự kỳ thị cao về các vấn đề tâm lý [21],[26].
Thang BDI-II là một thang đánh giá gồm 21 câu hỏi nghiên cứu về các nhận thức, các triệu chứng hành vi, tình cảm và các thể của RLTC. Mỗi câu hỏi được đánh giá bởi một số điểm phản ánh mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Đối tượng được đánh giá sẽ khoanh tròn vào số liên quan đến nhận định chính xác nhất cảm xúc của mình trong hai tuần qua. Chỉ số BDI-II chỉ đơn giản là cung cấp thông tin về mức độ triệu chứng trầm cảm. Sử dụng thang BDI-II để đánh giá RLTC cần thiết phải do nhà tâm lý lâm sàng hoặc bác sĩ tâm thần, tuy nhiên ở những người có điểm số BDI-II cao có thể cần được đánh giá bởi bác sĩ lâm sàng để có chẩn đoán RLTC chủ yếu [4],[21]. Tại Việt Nam trong lâm sàng sử dụng thang BDI để hổ trợ chẩn đoán và theo dõi trên lâm sàng và kết quả điều trị [13].
5.3.2. Thang Hamilton
Thang Hamilton ra đời năm 1960, thường được viết tắt theo các chữ cái đầu của tiếng Anh là HAM-D (Hamilton Depression) hoặc HDRS (Hamilton Depression Rating Scale). Thang này thể hiện một phương pháp đơn giản để đánh giá bằng định lượng mức độ nghiêm trọng của tình trạng RLTC, thang HAM-D gồm 17 mục để dánh giá RLTC trong tuần vừa qua, đây là một thang được công nhận có giá trị và độ tin cậy cao được sử dụng trong nghiên cứu lâm sàng và để chứng minh những chuyển biến của rối loạn này trong quá trình điều trị, thực hiện thang HAM-D mất khoảng 20 - 30 phút để hoàn thành và nên được thực hiện bởi người phỏng vấn đã được huấn luyện [4],[18].
5.3.3. Thang đánh giá CES-D (Centre for Epidemiological Studies - Depression Scale)
Thang đánh giá CES-D là một bộ câu hỏi ngắn tự điền được thiết kế để đánh giá các triệu chứng trầm cảm trong cộng đồng. Thang đánh giá CES-D đã được thử nghiệm trong các cuộc điều tra phỏng vấn các hộ gia đình và đã được thực hiện trong các nghiên cứu tâm thần học. Nó được kiểm chứng có tính cụ thể và chính xác rất cao. Các mục trong thang CES-D được thành lập bởi hệ thống biểu mẫu tự điền. Thang đánh giá CES-D có độ tin cậy, tính hợp lệ và có sự đồng nhất về đặc điểm nhân khẩu học trong các mẫu thử nghiệm trên dân số chung. Đây là một công cụ hữu ích cho các nghiên cứu dịch tễ học của bệnh trầm cảm. CES-D được thiết kế để đo lường mức độ hiện tại của triệu chứng trầm cảm. Bằng chứng cho thấy công cụ là đáng tin cậy nhưng cũng rất nhạy cảm với mức độ hiện tại của các triệu chứng, nên có thể dùng để kiểm tra lại về điểm số (ví dụ, điểm số của các bệnh nhân trước và sau khi điều trị, hoặc điểm số của các hộ gia đình được phỏng vấn trước và sau sự kiện gây sang chấn). Tuy nhiên, thang đánh giá CES-D cũng có một số hạn chế: nó không sử dụng như là một tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng, điểm cắt RLTC để kiểm tra lâm sàng vẫn chưa được xác nhận, đồng thời thực hiện thang đánh giá CES-D trong cộng đồng còn tùy thuộc vào kỹ năng của người phỏng vấn, trình độ nhận thức của cả người phỏng vấn và người được phỏng vấn [25].
6. Chẩn đoán phân biệt
Cần chú ý phân biệt RLTC với các rối loạn tâm thần khác, đặc biệt cần lưu ý các nguyên nhân gây nên RLTC [5],[10]:
6.1. RLTC do bệnh cơ thể
Chẩn đoán rối loạn trầm cảm do một bệnh cơ thể nếu RLTC được coi là kết quả sinh lý trực tiếp của một bệnh cơ thể.
6.2. RLTC do một chất
Nếu RLTC được coi là hậu quả sinh lý của sử dụng một chất (ma túy, thuốc hặc chất độc…), khi đó chẩn đoán sẽ là RLTC do một chất. Cần có các bằng chứng lâm sàng và cận lâm sàng để chứng tỏ rằng bệnh nhân có dùng một chất gây ra RLTC.
6.3. Loạn khí sắc
Loạn khí sắc phân biệt với trầm cảm chủ yếu trên cơ sở độ nặng, mạn tính và sự bền vững của các triệu chứng. Trong RLTC chủ yếu thì khí sắc trầm cảm được biểu hiện phần lớn thời gian trong ngày, gần như hàng ngày, trong một giai đoạn ít nhất 2 tuần. Trong loạn khí sắc thì khí sắc trầm cảm được biểu hiện trong nhiều ngày, nhưng có một số ngày bệnh nhân không có khí sắc trầm cảm, quá trình này kéo dài trong ít nhất 2 năm.
6.4. Rối loạn phân liệt cảm xúc
Rối loạn phân liệt cảm xúc có các yếu tố loạn thần (như hoang tưởng, ảo giác) tồn tại trong ít nhất 2 tuần khi không còn một triệu chứng trầm cảm rõ rệt nào.
6.5. Rối loạn tăng động - giảm chú ý
Bệnh nhân rối loạn tăng động - giảm chú ý cũng mất hứng thú và mất sở thích giống như trầm cảm. Tuy nhiên bệnh nhân luôn luôn hoạt động liên tục, rất khó tập trung trong lớp học, ảnh hưởng đến xung quanh.
6.6. Rối loạn tâm thần do chấn thương tâm lý
Khi có chấn thương tâm lý đủ mạnh thì bệnh nhân thường có ý nghĩ vô dụng, tự buộc tội, cho rằng mình có lỗi, thậm chí có ý tưởng và hành vi tự sát… Nhưng các triệu chứng này thường không bền vững quá 2 tháng.
Trong RLTC (đặc biệt là cơn đầu tiên) người ta thường thấy bệnh nhân có chấn thương tâm lý đi trước, nhưng ở đây, chấn thương tâm lý chỉ đóng vai trò là yếu tố thuận lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
- Trần Hữu Bình (2006), "Đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm trong các bệnh lý nội khoa", Tạp chí nghiên cứu y học, 49(3), tr. 109-114.
- Nguyễn Hữu Cát (2011), “Các rối loạn cảm xúc”, Giáo trình tâm thần học, tr. 22-26.
- David Ames, Nguyễn Kim Việt (Biên dịch - 2014), “Các rối loạn cảm xúc ở người già”, Hướng dẫn tâm thần học người già, tr. 95-102.
- Eduard Vieta, Nguyễn Kim Việt (Biên dịch - 2009), Xử trí rối loạn lưỡng cực trong thực hành lâm sàng, Nhà xuất bản Y học.
- Bùi Quang Huy (2008), Trầm cảm, Nhà xuất bản Y học.
- Isaac Schweitzer, Gordon Parker, Trần Viết Nghị (Biên dịch - 2002), “Rối loạn cảm xúc”, Cơ sở của lâm sàng tâm thần học, 155-182.
- Kaplan, Sadock, Nguyễn Kim Việt (Biên dịch - 2013), “Rối loạn cảm xúc và tự sát”, Tóm lược tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên, tr. 242-262.
- Nguyễn Hữu Kỳ (2011), “Rối loạn khí sắc”, Giáo trình chuyên khoa I, Trường Đại học Y Dược Huế.
- Nguyễn Hữu Kỳ (2011), “Rối loạn khí sắc ở trẻ em”, Giáo trình tâm thần học trẻ em (CKI chuyên ngành), 92-95.
- Nguyễn Hữu Kỳ (2011), “Trầm cảm”, Giáo trình tâm thần học, tr. 100-114.
- Ngô Tích Linh (2005), "Rối loạn trầm cảm nặng", Tâm thần học, Nhà xuất bản Y học, tr. 116-123.
- Nguyễn Viết Thiêm (2001), "Dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm", Chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng cho các bệnh loạn thần nặng mạn tính, tr. 67-70.
- Nguyễn Viết Thiêm (2001), "Trầm cảm trong thực hành tâm thần học", Chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng cho các bệnh loạn thần nặng mạn tính, tr. 71-76.
- Nguyễn Văn Thọ (2007), "Trầm cảm trẻ em", Thông tin chuyên ngành: các vấn đề liên quan đến tâm thần - Bệnh viện Tâm thần Trung Ương II, tr. 4-8.
- Lương Hữu Thông (2005), “Trầm cảm”, Sức khỏe tâm thần - các rối loạn tâm thần thường gặp, tr. 141-204.
- Tổ chức y tế thế giới (1992), Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (PLBQT - 10F) về các rối loạn tâm thần và hành vi, Viện sức khỏe tâm thần - Bệnh viện tâm thần Trung ương.
- Nguyễn Kim Việt & Nguyễn Văn Dũng (2014), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm khởi phát ở người cao tuổi", Hội nghị khoa học lần thứ nhất tâm thần học người già, tr. 69-90.
TIẾNG ANH
- Hamilton M (1960), A rating scale for depression, J Neurol Neurosurg Psychiatry, 23, pp. 56-62.
- Hemert D.A, Fons J. R. van de Vijver, and Ype H. Poortinga (2002), The beck depression inventory in 28 countries: A Meta-Analysis.
- Jenkins R and McDaid (2012), The economic impact of depression, Depression: Aglobal Crisis World Mental Health Day, pp. 23 - 24.
- Lipps G.E, Gillian A Lowe, Sharon Halliday et al (2010), The association of academic tracking to depressive symptoms among adolescents in three Caribbean countries, Child Adolesc Psychiatry Ment Health, pp. 16-32.
- Marcus Marina, Taghi Yasamy, Mark van Ommeren et al (2012), Depression: A global public health concern, Depression: A Global Crisis World Mental Health Day, pp. 6 - 8.
- Murray C.J.L and Alan D. Lopez (1997), A comprehensive assessment of mortality and disability from disease, injuries, and risk factors in 1990 and projected to 2020, The global burden of disease, pp. 4-5, 38-39.
- National Collaborating Centre for Mental Health (2005), Depression in children and young people: Identification and management in primary, community and secondary care, National Clinical Practice Guideline, 28, pp. 55-57.
- Radloff L.S (1977), The CES-D Scale: A self-report depression scale for research in the general population, Applied psychological measurement, 1, pp. 385-401.
- Richardson L.P. and Rachel Katzenellenbogen (2005), Childhood and adolescent depression: the role of primary care providers in diagnosis and treatment, Curr Probl Pediatr Adolesc Health Care, 35(1), pp. 6-24.
- Wan Deborah (2012), Depression: A global crisis, World mental health day, 2.
- . Bình Trần Hữu, Đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm trong các bệnh lý nội khoa, 2006. p. 109-114.
- . Cát Nguyễn Hữu, Các rối loạn cảm xúc. Vol. Giáo trình tâm thần học.
- . David Ames et a, Các rối loạn cảm xúc ở người già. Vol. Hướng dẫn tâm thần học người già. 2014.
- . Eduard Vieta, Xử trí rối loạn lưỡng cực trong thực hành lâm sàng. 2009.
- . Huy Bùi Quang, Trầm cảm. 2008. Nhà xuất bản y học.
- . Isaac Schweitzer & Gordon parker, Rối loạn cảm xúc. Vol. Cơ sở của lâm sàng tâm thần học. 2002. 155 - 182.
- . Kaplan & Sadock, Rối loạn cảm xúc và tự sát. Vol. Tóm lược tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên, Nhà xuất bản y học. 2013. 242 - 262.
- . Kỳ Nguyễn Hữu, Rối loạn khí sắc. Vol. Giáo trình chuyên khoa I - Trường Đại học y dược Huế. 2011.
- . Kỳ Nguyễn Hữu, Rối loạn khí sắc ở trẻ em. Vol. Giáo trình tâm thần học trẻ em (CKI chuyên ngành) 2011. 92-95.
- . Kỳ Nguyễn Hữu, Trầm cảm. Vol. Giáo trình tâm thần học. 2011. 100 - 114.
- . Linh Ngô Tích, Rối loạn trầm cảm nặng, 2005. p. 116 -123.
- . Thiêm Nguyễn Viết, Dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm, 2001. p. 67-70.
- . Thiêm Ngyễn Viết, Trầm cảm trong thực hành tâm thần học, 2001. p. 71-76.
- . Thọ Nguyễn Văn, Trầm cảm trẻ em, in Thông tin chuyên ngành, Số 52, Quí 1 - 20072007. p. 4 - 8.
- . Thông Lương Hữu, Sức khỏe tâm thần - các rối loạn tâm thần thường gặp. 2005. 141, 204 - 205.
- . Tổ chức y tế thế giới, Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (PLBQT - 10F) về các rối loạn tâm thần và hành vi. Vol. Viện sức khỏe tâm thần - Bệnh viện tâm thần Trung ương. 1992. 91-97.
- . Việt Ngyễn Kim, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm khởi phát ở người cao tuổi, 2014. p. 69-90.
- Hamilton M, A rating scale for depression. J Neurol Neurosurg Psychiatry 1960, 1960. 23: p. 56-62.
- Hemert Dianne A. van, F.J.R.v.d.V., Ype H. Poortinga,, The Beck Depression Inventory in 28 Countries: A Meta-Analysis. 2002.
- Jenkins R and D. McDaid, THE ECONOMIC IMPACT of depression. DEPRESSION: Aglobal Crisis World Mental Health Day, October 10 2012, 2012: p. 23 - 24.
- Lipps Garth E, G.A.L., Sharon Halliday et al,, The association of academic tracking to depressive symptoms among adolescents in three Caribbean countries. Child Adolesc Psychiatry Ment Health, 2010. 4: p. 16-32.
- Marcus Marina, M.T.Y., Mark van Ommeren et al,, DEPRESSION: A Global Public Health Concern. 2012. DEPRESSION: A Global Crisis World Mental Health Day, October 10 2012: p. 6 - 8.
- Murray Christopher J. L and Alan D. Lopez, A comprehensive assessment of mortality and disability from disease, injuries, and risk factors in 1990 and projected to 2020. Vol. The global burden of disease. 1997.
- National Collaborating Centre for Mental Health, Depression in Children and Young People, Identification and management in primary, community and secondary care. Vol. National Clinical Practice Guideline Number 28. 2005.
- Radloff Lenore Sawyer, The CES-D Scale: A Self-Report Depression Scale for Research in the General Population. APPLIED PSYCHOLOGICAL MEASUREMENT, 1977. 1. No. 3 Summer 1977 p. 385-401.
- Richardson LP and Rachel Katzenellenbogen, Childhood and adolescent depression: the role of pri-mary care providers in diagnosis and treatment. Curr Probl Pediatr Adolesc Health Care, 2005. 35(1): p. 6-24.
- Wan Deborah Depression: A global crisis, World mental health day, october 10/2012. 2012. 2.