Biên soạn: Nguyễn Thanh Quang Vũ
Khoảng 20 năm trở lại đây tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở vị thành niên đang tăng lên nhanh chóng, tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở vị thành niên hiện ở mức từ 6 - 8% [6]. Tại Việt Nam tỷ lệ rối loạn trầm cảm vị thành niên lứa tuổi 15 chiếm tỷ lệ từ 4,2% đến 8,35% [11].
Trẻ vị thành niên mắc rối loạn trầm cảm sẽ gây ra sự bất an, xa lánh gia đình bạn bè và suy giảm sự tập trung trong học tập, dẫn đến cách ly xã hội tăng lên, đặc biệt làm tăng nguy cơ tự sát [7]. Có khoảng 40 - 80% số trường hợp tự sát ở lứa tuổi vị thành niên có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn trầm cảm [6]. Rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên thường được chẩn đoán và điều trị muộn, còn rất nhiều trường hợp chưa được phát hiện, do vậy cần quan tâm phát hiện và điều trị rối loạn trầm cảm ở lứa tuổi này và cần có nhiều công trình nghiên cứu để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên để có thể phát hiện, dự phòng, điều trị có hiệu quả nhất, tránh thiệt thòi cho trẻ và gia đình trẻ [5].
1. Đặc điểm chung tuổi vị thành niên
Tuổi vị thành niên là những người ở sau tuổi thiếu nhi và trước tuổi trưởng thành. Đây là giai đoạn chuyển tiếp và quan trọng trong cuộc sống con người. Giai đoạn này rất có nhiều thay đổi về tâm sinh lý, bước đầu hình thành nhân cách và là giai đoạn đánh dấu bước phát triển lớn từ phạm vi gia đình, họ bước đầu gia nhập vào xã hội cộng đồng, vào tập thể cùng nhóm tuổi và phát triển những kỹ năng. Thời kỳ vị thành niên được đặc trưng bởi sự phát triển nhanh cả về trí tuệ và thể lực. Giai đoạn phát triển thể lực này chỉ kém tốc độ phát triển của bào thai và những tháng năm đầu của trẻ mà thôi. Khái niệm vị thành niên được thừa nhận về mặt văn hóa xã hội là một giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành, con người trong độ tuổi này thay đổi rất nhiều tùy theo từng dân tộc, trong mỗi dân tộc lại thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố [13].
Theo Tổ chức y tế thế giới thì tuổi vị thành niên được qui định từ 10 - 19 tuổi [28].
Tuổi vị thành niên được chia làm 03 giai đoạn [13]:
- Vị thành niên sớm: từ 10 - 14 tuổi.
- Vị thành niên trung bình: từ 15 - 17 tuổi.
- Vị thành niên muộn: từ 18 - 19 tuổi.
2. Đặc điểm phát triển tâm lý lứa tuổi vị thành niên
Dậy thì đánh dấu khởi đầu của giai đoạn vị thành niên, một giai đoạn chịu đựng những biến đổi sâu sắc trong các mối quan hệ xã hội và giới tính. Các thay đổi về vai trò, tính cách, quan hệ gia đình và xã hội của các em phản ảnh sự trưởng thành của chúng [18].
Sự phát triển tâm lý lứa tuổi vị thành niên có thể dựa vào 3 hoạt động tâm lý cơ bản sau [8]:
2.1. Về hành động ứng xử
Giai đoạn của tính khó gần với người lớn, nhưng đi tìm nhóm người cùng lứa, nhóm bàn luận, phong trào thanh niên, nhiệt tình tập thể.
2.2. Về tư duy hiểu biết
- Kiến tạo các hệ thống, các thuyết nhằm biến đổi thế giới.
- Đến 12 tuổi tư duy trở nên hình thức, có suy nghĩ tự phát tự do hoạt động.
- Trí khôn mang tính tự kỷ: tin tưởng sức mạnh toàn năng của sự suy nghĩ (tuổi siêu hình).
- Sau đó tạm cân bằng khi hiểu được chức năng của sự suy nghĩ không phải là để nói ngược mà là đoán trước và giải thích kinh nghiệm.
2.3. Về tình cảm đạo đức
- Chinh phục nhân cách.
- Hòa nhập vào thế giới người lớn.
- Giai đoạn mất cân bằng nhất thời với tự kỷ, tính vị tha hiệp sĩ, hoang tưởng tự đại.
- Chuyển sang giai đoạn hiện thực hóa cùng với sự đi vào cuộc sống nghề nghiệp, hết mơ mộng.
3. Đặc điểm RLTC của vị thành niên
RLTC gặp mọi lứa tuổi ở trẻ em nhưng tăng lên ở tuổi vị thành niên. Đặc điểm cơ bản của RLTC điển hình rất giống nhau ở vị thành niên và người trưởng thành, có biểu hiện các dấu hiệu thông thường về RLTC, đặc biệt là cảm giác buồn chán lan tỏa và thiếu định hướng tương lai [7],[9].
Về mặt cảm xúc thì RLTC vị thành niên thường có khả năng trải qua sự buồn bã sâu sắc và chịu đựng sự buồn bã này mọi thời gian. Khí sắc trầm cảm được phổ biến bằng tính cáu kỉnh rõ rệt. Trẻ vị thành niên có thể không chú ý tới hình thức cá nhân và dễ xúc động, đặc biệt nhạy cảm trong từ chối mối quan hệ tình cảm [7],[17].
Về tư duy và nhận thức thì vị thành niên bị trầm cảm thường hay đánh giá về nhận thức bản thân và điều chỉnh nó một cách không thích hợp, thiếu tự lực. Nhiều khó khăn ở trường là có thể gặp, suy giảm sự tập trung học tập, khó khăn về chức năng tâm lý xã hội [7],[17].
Về hoạt động và hành vi thì RLTC ở trẻ vị thành niên có thể xảy ra hành vi chống đối xã hội tiêu cực và việc sử dụng rượu hoặc ma túy bất hợp pháp. Cảm giác bất an, cáu kỉnh, hung hăng và tự ái, kém hợp tác trong các vấn đề gia đình, rút khỏi các hoạt động xã hội và đi lang thang đều phổ biến ở trầm cảm vị thành niên. Trẻ vị thành niên bị RLTC biểu hiện sự bất an, xa lánh gia đình và bạn bè và dẫn đến cách ly xã hội tăng lên [7].
RLTC trẻ vị thành niên ảnh hưởng rất lớn đến năng lực học tập, giao tiếp, sự hình thành phát triển các mối quan hệ xã hội, sự phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, tính cách của trẻ. Nếu RLTC không phát hiện kịp thời sẽ tăng gánh nặng cho gia đình và xã hội [5]. Đa số trẻ em bị RLTC đều có giảm sút kết quả học tập (chiếm 96,7%) [2].
4. Tình hình rối loạn trầm cảm vị thành niên trên thế giới và Việt Nam
4.1. Tỷ lệ mắc RLTC
4.1.1. Trên thế giới
RLTC là một trong những rối loạn có tỷ lệ rất cao ở các nước trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới có 5% dân số thế giới có RLTC [10]. Greenfield (1997) đã xác định tỷ lệ RLTC trong dân số là 10 - 13% [6]. Đặc biệt, trong khoảng 20 năm trở lại đây tỷ lệ RLTC ở vị thành niên đang tăng lên nhanh chóng.
Theo các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ RLTC ở vị thành niên từ 6 - 8%, thậm chí có nghiên cứu cho rằng tỷ lệ này có thể lên đến 14 - 25% [6], [7]. Nghiên cứu tại các nước vùng Caribe năm 2008 đã cho thấy tỷ lệ RLTC rõ rệt (theo thang BECK) trong thanh thiếu niên dao động từ 24,5% ở St Kitts và Nevis; 25,3% ở Trinidad và lên đến 40,6% tại Jamaica [23],[24],[25]. Tại Ấn Độ cho thấy trong một thời điểm có đến 18,4% học sinh bị RLTC theo thang BECK [21]. Theo nghiên cứu của Saint - Clair Bahs (2002) ở học sinh lứa tuổi từ 10 - 17 tại một trường học ở Brasil cho thấy tỷ lệ mắc RLTC theo thang CDI (Children’s Depression Inventory) là 20,3% [20]. Nghiên cứu tại Mỹ năm 2003 cho thấy ở trẻ không bị RLTC ở lứa tuổi từ 9-13 tuổi (khi bắt đầu lượng giá) có đến 7,3% trẻ trai và 11,7% trẻ gái đã phát triển thành RLTC tính đến năm 16 tuổi [22]. Nghiên cứu của Gitanjali Saluja (2004) ở học sinh lớp 6, lớp 8 và lớp 10 tại các trường học ở Mỹ cho thấy tỷ lệ RLTC là 18% [27]. Ở lứa tuổi trên 15 tại Canada theo thang CCHS (Canadian Community Health Survey), cho thấy tỷ lệ RLTC cả đời là 12,2%, trong một năm là 4,8% và trong 30 ngày là 1,8% [26].
4.1.2. Ở Việt Nam
Tỷ lệ RLTC ở Việt Nam khoảng 3 - 6% dân số [14]. Nghiên cứu của Đặng Hoàng Hải (2005) tỷ lệ RLTC trong cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh là 6,6% dân số [4]. Theo Nguyễn Văn Thống (2010) cho thấy tỷ lệ RLTC trong sinh viên Đại học Y Dược Cần Thơ là 24,7% [19].
Theo các nghiên cứu của các tác giả ở trong nước, như báo cáo của Nguyễn Văn Thọ RLTC ở tuổi vị thành niên với tỷ lệ hiện mắc là 3- 8% [17], tương tự như nghiên cứu của Trần Viết Nghị năm 1999 cho thấy tỷ lệ mắc RLTC ở trẻ vị thành niên chiếm từ 4,2% đến 8,35% [11]. Theo Nguyễn Thọ năm 2005 tỷ lệ RLTC ở học sinh THPT là 10% [16]. Tuy nhiên cũng có nhiều tác giả ở trong nước cho thấy tỷ lệ RLTC ở vị thành niên và học sinh THPT là rất cao như tác giả Lã Thị Bưởi năm 2004 cho thấy tỷ lệ RLTC tại một trường học ở Việt Bắc theo thang BECK là 61,67%, tỷ lệ RLTC theo lâm sàng là 23,33% [1]. Theo nghiên cứu của Ngô Thanh Phong năm 2008 thì tỷ lệ RLTC ở học sinh THPT là 27,49% [12].
5. Chẩn đoán RLTC ở vị thành niên
Hiện nay, chẩn đoán rối loạn trầm cảm đã được xác định trong tâm thần học bởi hai hệ thống chẩn đoán là: hệ thống chẩn đoán của hiệp hội Tâm thần Mỹ (DSM-IV) và hệ thống chẩn đoán trong bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD-10) [3].
5.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán RLTC theo ICD-10
Trầm cảm ở tuổi vị thành niên có các triệu chứng thông thường của trầm cảm ở người lớn [6],[9]. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây chẩn đoán RLTC đều được áp dụng các nguyên tắc chẩn đoán giai đoạn trầm cảm được mô tả trong ICD-10 [15].
5.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm nặng DSM-IV
Trầm cảm ở tuổi vị thành niên có thể sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm nặng theo DSM-IV [6],[9].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
- Lã Thị Bưởi và cộng sự (2004), "Trầm cảm ở thanh thiếu niên dân tộc thiểu số", Nội san tâm thần học, số 6, tr. 88 - 91.
- Nguyễn Thành Công (2008), "Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng trầm cảm trẻ em", Kỷ yếu nghiên cứu khoa học kỷ niệm 95 năm hình thành và phát triển Bệnh viện tâm thần Trung ương II, 117-119.
- David Ames, Nguyễn Kim Việt (Biên dịch - 2014), “Các rối loạn cảm xúc ở người già”, Hướng dẫn tâm thần học người già, tr. 95-102.
- Đặng Hoàng Hải (2005), "Rối loạn trầm cảm tại Thành phố Hồ Chí Minh", Y học thực hành, 4(510), tr. 49-51.
- Cao Vũ Hùng (2010), Nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên điều trị tại Bệnh viện nhi Trung ương, Luận án tiến sỹ y học.
- Bùi Quang Huy (2008), Trầm cảm, Nhà xuất bản Y học.
- Kaplan, Sadock, Nguyễn Kim Việt (Biên dịch - 2013), “Rối loạn cảm xúc và tự sát”, Tóm lược tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên, tr. 242-262.
- Nguyễn Hữu Kỳ (2011), “Quá trình phát tiển tâm lý trẻ em”, Giáo trình tâm thần học trẻ em - CKI chuyên ngành, tr. 1-14.
- Nguyễn Hữu Kỳ (2011), “Rối loạn khí sắc ở trẻ em”, Giáo trình tâm thần học trẻ em (CKI chuyên ngành), 92-95.
- Nguyễn Hữu Kỳ (2011), “Trầm cảm”, Giáo trình tâm thần học, tr. 100-114.
- Trần Viết Nghị, Nguyễn Văn Siêm (2001), "Nghiên cứu dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm tại một số quần thể cộng đồng", Y học Việt Nam, Số 4, tr. 18-21.
- Ngô Thanh Phong (2008), "Đánh giá tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm của học sinh khối lớp 12 trường PTTH Nguyễn Trãi huyện Châu Đức - Bà Rịa Vũng Tàu", Kỷ yếu hội nghị khoa học trẻ lần thứ I về chăm sóc và điều trị bệnh tâm thần, 2-11.
- Cao Ngọc Thành, Võ Văn Thắng (2013), “Sức khỏe vị thành niên, vấn đề và giải pháp”, Giáo trình quản lý sức khỏe sinh sản, tr. 102-132.
- Nguyễn Viết Thiêm (2001), "Dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm", Chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng cho các bệnh loạn thần nặng mạn tính, tr. 67-70.
- Nguyễn Viết Thiêm (2001), "Trầm cảm trong thực hành tâm thần học", Chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng cho các bệnh loạn thần nặng mạn tính, tr. 71-76.
- Nguyễn Thọ và cộng sự (2005), "Khảo sát về vấn đề rối loạn phát triển tâm lý, hành vi và cảm xúc ở học sinh phổ thông", Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học - Bệnh viện tâm thần Trung ương II, tr. 48-55.
- Nguyễn Văn Thọ (2007), "Trầm cảm trẻ em", Thông tin chuyên ngành: các vấn đề liên quan đến tâm thần - Bệnh viện Tâm thần Trung Ương II, tr. 4-8.
- Lương Hữu Thông (2005), “Trầm cảm”, Sức khỏe tâm thần - các rối loạn tâm thần thường gặp, tr. 141-204.
- Nguyễn Văn Thống (2010), Khảo sát tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan trong sinh viên y trường đại học Y Dược Cần Thơ, Đề tài khoa học công nghệ cấp trường, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ.
TIẾNG ANH
- Bahls Saint-Clair (2002), Epidemiology of depressive symptoms in adolescents of a public school in Curitiba, Brazil, Rev Bras Psiquiatr, 24(2), pp. 63-67.
- Bansal Vivek, Sunil Goyal, and Kalpana Srivastava (2012), Study of prevalence of depression in adolescent students of a public school, Industrial Psychiatry Journal, 18(1), pp. 43-46.
- Costello E.J, Sarah Mustillo, Alaattin Erkanli et al (2003), Prevalence and development of psychiatric disorders in childhood and adolescence, Arch Gen Psychiatry, 60, pp. 837-844.
- Lipps G.E, Gillian A Lowe, Sharon Halliday et al (2010), The association of academic tracking to depressive symptoms among adolescents in three Caribbean countries, Child Adolesc Psychiatry Ment Health, pp. 16-32.
- Lowe G.A, Garth Lipps, Sharon Halliday et al (2008), Depressive symptoms among fourth form students in St. Kitts and Nevis High Schools, The Scientific World Journal, 9, pp. 149-157.
- Maharaj R.G, F Alli, K Cumberbatch et al (2008), Depression among adolescents, aged 13-19 years, attending secondary schools in trinidad prevalence and associated factors, West Indian Medical Journal, 57(4), pp. 352-359.
- Patten S.B, Jian Li Wang, Jeanne V A Williams et al (2006), Descriptive epidemiology of major depression in Canada, Canada Journal Psychiatry, 51(2), pp. 84-90.
- Saluja Gitanjali, Ronaldo Iachan, Peter C. Scheidt et al (2004), Prevalence of and risk factors for depressive symptoms among young adolescents, Arch Pediatr Adolesc Med, 158, pp. 760-765.
- UNICEF (2011), Aldolescence - An age of oppportunity, The state of the World's children 2011, pp. 1 - 13.